Ý ĐẠO THUYỀN TỪ
TỔNG TRÌ
Liên hoa diễn diệu pháp
Duyên sanh trí bồ đề
Vạn pháp tòng tâm khai
Bạch ngọc hoa chơn tướng
Chư pháp tận viên dung.
Giới thiệu
Sách này là một phần nghĩa lý chơn thật của Kinh Diệu Pháp Liên Hoa đã ẩn nghĩa văn tự trong Tiếng Việt được chuẩn bị từ mấy ngàn năm nay; nay đã tới lúc giảng bày cho thế gian được biết.
Sách này tạm giải mã chút phần “Phẩm Tựa” với sự giảng nghĩa của hơn sáu muôn lời. Khi nào cơ duyên trùng khởi thế gian được pháp lạc, lý chơn thật lại được tuyên bày.
Các hàng tu khi thấy được nghĩa vi diệu, cảnh giới thâm tàng trong lời các pháp tự lưu bố rộng truyền.
Vì đây là pháp thường trụ ở thế gian thì tác giả chỉ là người mô tả lại lời của kinh văn; viết lại những luận giải trong kinh này. Cái quan trọng các hàng tu, tâm tự chứng biết phân biệt được cảnh giới của tất cả thật tướng từ thế gian pháp đến pháp xuất ly; đó đã là niềm vui của người đạo bồ đề.
Sách này là pháp thật cho nên có những phần chân nghĩa đi sâu vào sự thật của tất cả các pháp; không phân biệt đạo đời, từ diệu lý đào sâu tìm ra chơn đạo giải thoát.
NQ.LT
Phẩm Tựa Thứ Nhứt (lược giảng lần 1)
Tôi nghe như thế này: Một thuở nọ đức Phật ở trong núi Kỳ-Xà-Quật, nơi thành Vương-Xá cùng chúng đại Tỳ-kheo một vạn hai ngàn người câu hội.
Trước hết chúng ta tìm hiểu tại sao lại gọi là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
Cái cắt nghĩa đầu tiên chúng ta tìm hiểu về chữ kinh, cái nghĩa đơn giản nhất của kinh đây là nó nói về một cái chơn lý nào đó; một cái lời lẽ nào đó, một cái cảnh giới nào đó, một cái con đường mà chư Phật đã cất công biên soạn ra cho chúng có cái phương tiện nương vào đó mà tìm hiểu để đưa con người tu học mình vào con đường hiểu biết và giải thoát.
Thì diệu pháp chính là cái pháp nó có cái chỗ diệu dụng, kỳ diệu, vi diệu, nhẹ nhàng của pháp đó. Nó sẽ dẫn dắt cho mình tìm đến cái cảnh giới giải thoát trang nghiêm cho nên gọi là Liên Hoa.
Liên hoa tức hoa sen, hoa sen tượng trưng cho cái tòa sen báu giải thoát của chư Phật, thoát khỏi mọi phiền não ràng buộc của thế gian. Muốn có cái liên hoa này chúng ta phải nương vào diệu pháp, mà diệu pháp thì phải nương vào cái lời lẽ trong kinh này mà nghiên cứu giảng nghĩa rõ hiểu thì mới hiểu được. Thì tôi nói Kinh Pháp Hoa này cũng là tùy sức diễn nói, nương vào lời lẽ tâm pháp trong kinh này để mà tìm đến cái đạo lớn vi diệu của các Phật.
Thì cái điểm tựa của kinh này là ngôn ngữ, cho nên hôm nay chúng ta sẽ tìm hiểu về cái giải thoát đạo bằng cái ngôn ngữ thường trụ ở thế gian này để chúng ta xé toạc cái màn vô minh của mình.
Cái Phẩm Tựa thứ nhất này cái đầu tiên chúng ta phải nương vào đó là ngôn ngữ, tiếp đó nữa là chúng ta sẽ tìm hiểu ra cái sự thật của kinh này bằng ngôn ngữ, cái nghĩa sâu xa của nó là gì. Chúng ta tìm hiểu phân tích cho rõ nghĩa của đạo.
Thì kinh nói như thế này:
Tôi nghe như thế này, một thuở nọ đức Phật ở trong núi Kỳ-Xà-Quật.
Tôi nghe như thế này là ai nghe ai thấy, trên phương diện lịch sử thì người ta nói là ông A-Nan nghe, đại chúng Tỳ kheo các chư vị khác cũng nghe nhưng người ta không nhớ được như ổng. Mà ở trong Phật giáo Nam truyền cũng không có kinh nào gọi là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa hết. Thì đây là một điều lạ, một bí mật, cho nên có rất rất nhiều người nói rằng: Kinh này là không phải Đức Phật Thích Ca thuyết ra, các kinh Đại thừa khác cũng vậy, chỉ là do mấy ông sau này sáng tác hư cấu ra thôi, không có ông Phật nào là ông A Di Đà, hay Văn Thù, Quan Âm, Phổ Hiền; cũng không có Đại thừa hay Mật thừa Mật tông nào hết; tất cả đều được sanh ra từ các luận thuyết của ngoại đạo; họ nói như vậy.
Thì mấy ổng nói như vậy có đúng hay không?
Đúng hay không biết nhưng nghe mấy ổng phân tích thì mấy ổng nói là mấy ổng có cái lý của mấy ổng.
Nói như vậy rồi thì bây giờ tôi hỏi lại kinh này là do ai viết ra, kinh Đại thừa ở đâu mà có, có phải như mấy ổng nói là do mấy ông sau này hư cấu ra không. Nói gì thì nói kinh của Phật nói ra nó nhiều không biết bao nhiêu mà kể; nào là Nikaya, Trường A hàm Pali tạng, Phạn tạng, Mật tạng nhiều vô số kể. Vậy đó mà cũng có người nhớ hết rồi chép ra cho mình đọc đây.
Thì Kinh Pháp Hoa này cũng là Kinh Giáo Bồ Tát Chư Phật Sở Hộ Niệm, Phật thuyết trong cảnh chánh định từ hàng La Hán trở lên mới có thể thấy biết, những hàng tu khi đầy đủ phước duyên thần lực mới có thể thấy biết được.
Các Phật, Kim cang, Bồ tát không phải ai muốn thấy là thấy được. Thời Đức Phật cũng vậy thôi, đâu phải ai cũng có thiên nhãn thông, đâu phải ai cũng đủ định lực để thấy biết được cảnh giới này cảnh giới kia của pháp thân.
Phật nói kinh này là nói trong cõi pháp thân, cảnh chánh định; thế thì tại sao nó có mặt ở thế gian này, có Kinh Pháp Hoa cho mình đọc ở đây; ai là người đầu tiên chấp bút viết lên cái Kinh Diệu Pháp Liên Hoa này, nếu chấp bút mà viết qua bằng trí nhớ thì liệu đúng được chính xác không, có tam sao thất bản không, có thiếu sót sai phạm không; thì ở đây có muôn ngàn câu hỏi.
Thì ai chấp bút viết xuống cuốn Kinh Pháp Hoa này đi nữa thì chắc chắn một điều là đều phải nương vào thần lực của Như lai, của Hội Thượng Phật Bồ Tát mà mô tả, thì vị này ít nhiều chi đã là tam muội thành tựu, đắc được thánh quả, cũng vô lượng đà la ni cảnh giới hộ niệm chứ đâu phải nghĩ gì viết nấy rồi tự nhiên sáng tác hư cấu ra đâu.
Thì đây là cái trí tuệ và phương tiện của chư Phật, mọi thứ đều được chuẩn bị trang bị kĩ lưỡng hết để đưa xuống thế gian.
Rồi tiếp tục nè: Một thuở nọ Đức Phật ở trong núi Kỳ-Xà-Quật.
Ở trong núi Kỳ-Xà-Quật là ở đâu, núi Kỳ-Xà-Quật là ở đâu?
Núi Kỳ-Xà-Quật ở đây là chư Phật mượn cái tướng núi ở thế gian để mà vào chánh định cùng thánh chúng, trên phương diện phương tiện thì mượn tướng pháp như vậy thôi. Chứ thật sự núi Kỳ-Xà-Quật chính là Linh Sơn Bảo Địa; là chỗ trụ của Đức Phật, ngài vẫn đang ngồi đó để mà thuyết Kinh Pháp Hoa; đây là một nghĩa của pháp. Ai tu được rồi thì tự nhiên đến được cái núi thiêng này, thì cảnh này là cảnh của tâm pháp. Chỉ những ai đầy đủ thần lực nhập vào hàng thánh được rồi mới thấy được cái núi Linh Thứu Linh Sơn này.
Thì mình vào núi Linh Sơn này để làm gì?
Để Chư Phật họ ấn chứng cho mình tu được tới đâu rồi, tâm pháp của mình đã trụ được ở bực nào rồi.
Mà mình muốn đến núi này thì mình phải tu cho thành tâm trước cái đã, phải trải qua nhiều chặng đường tu gian khổ, phải trừ bỏ hết phiền não tật đố tham lam sân hận ái nhiễm cái đã.
Khi tâm ý đã sạch trong rồi, thì mới đến được núi Kỳ-Xà-Quật này.
Rồi tiếp là: Nơi thành Vương Xá cùng chúng đại Tỳ-kheo một vạn hai ngàn người câu hội.
Nơi thành Vương Xá là gì?
Có ba nghĩa, nhưng có hai cảnh:
Hai cảnh là tâm và tướng.
Ba nghĩa là thành nhỏ, thành lớn, và thành giải thoát.
Thành Vương Xá nhỏ là cái thân người này cũng là cái thành Vương Xá; trong thân đó có mười hai nhân duyên ban đầu ẩn chứa trong tạng thức nương vào sự hòa hợp âm dương của cha mẹ mà tạo thành một tế bào sống này mới có mặt.
Thì tất cả nhân duyên để chúng ta có mặt hôm nay đây đều là nương nơi trời đất, tạo hóa, cha mẹ ban tặng.
Khi đầy đủ mười hai nhơn duyên mới hình thành được thân này rồi mới nương vào một cái thành Vương Xá lớn hơn là thế gian này, trái đất, bầu trời này.
Có trái đất này mới hội đủ mười hai nhân duyên đó trước mới hình thành được cái hình hài tạng thân này.
Tạng thân này thành tựu được sáu căn, sáu căn thu nhiếp sáu trần sanh hiểu biết các pháp.
Bây giờ nếu nói theo nghĩa của cảnh giải thoát; thì Vương Xá ở đây không có nghĩa là cái kinh thành ở thế gian này nữa, đã ở núi Kỳ-Xà-Quật rồi còn thành Vương Xá gì nữa. Tức là nơi bảo điện của Phật, cảnh giới của Phật bày biến ra trong tàng thức; vô số không gian và thời gian cũng đều nằm ở trong đó, mà ở đó cũng đều có các hàng Thánh chúng Bồ tát, đại A La Hán cũng đều ở đó; rồi Phật tánh cũng đều ẩn chứa trong tạng thân này.
Nếu nói về thế gian thì Xá cũng giống như kinh thành vậy thôi, trong thành này dân chúng những vị đang trụ ở cảnh giới này, đồng một cảnh giới, căn cơ tương đồng có khác giống thì cũng đều được hội tụ ở đây.
Mà ở trong đại chúng này có chúng đại Tỳ-kheo một vạn hai ngàn người câu hội là gì?
Một vạn hai ngàn người tức là những vị đại Tỳ kheo này đều ngộ được rõ biết mười hai nhân duyên rồi, đã được vô sanh rồi; vô sanh tức là những vị này đã dứt trừ được vô minh phiền não rồi, đã là bậc duyên giác trí lanh rồi, đã dứt trừ được vô minh rồi thì những vị này cũng sẽ đều đến được nơi thành Vương Xá này.
Cho nên cũng như vậy thôi, ai đã thành tựu được pháp mười hai nhân duyên rồi thì cũng đều được đến đây hết, cũng đều được câu hội vào cảnh giới này nghe Phật thuyết Kinh Pháp Hoa hết. Núi Kỳ Xà Quật này là một nơi ấn chứng cho các hàng tu đạo giải thoát; đó là cái ẩn nghĩa đằng sau kinh này, là nơi chúng ta phải học hỏi tiếp thu các pháp đà-la-ni tam muội, là nơi khởi nguồn cho các bực giải thoát tiến vào Bồ tát đạo cùng Phật đạo.
Trong lịch sử thì thánh chúng của Đức Phật cũng chỉ có một ngàn hai trăm năm mươi vị tỳ kheo La Hán gì đó thôi, còn trong kinh này lại nói một vạn hai ngàn vị đại tỳ kheo câu hội thì núi Kỳ Xà Quật nhỏ xíu lấy chỗ đâu mà ngồi cho hết; cho nên đây là mượn tướng nhỏ mà nói pháp tướng lớn. Cho nên đây cái mật nghĩa, là cái ẩn ý sâu xa ở trong đó mà chư Phật đã dùng thần lực điển quang thanh tịnh từ cảnh giới trang nghiêm mà nói pháp này. Chứ không phải một ai có thể biên bày ra được hết.
Rồi tiếp: Các vị đó đều là bậc A-La-Hán, các lậu đã hết, không còn phiền não, việc lợi mình đã xong dứt sự ràng buộc trong các cõi tâm được tự tại.
Thì tức là muốn đến được cái núi Kỳ-Xà-Quật nơi thành Vương-Xá này thì người tu hành phải đạt được cái lậu tận của các bậc A-La-Hán, các lậu tức là những cái vô minh phiền não, thiếu hiểu biết, không có cái trí thanh tịnh.
Việc lợi mình đã xong tức là đã tự tu được rồi, tự lo cho mình được rồi, có đủ thần lực để tự giải thoát khổ đau sanh tử cho mình được rồi; tâm không còn bị ràng buộc trong ba cõi tham ái, sân hận, si mê nữa. Nhưng mà các bậc A La Hán vẫn chưa có cái trí giải thoát, cái phương tiện ráo rốt để mà độ sanh thì vẫn còn thiếu thốn; cho nên các vị này buộc phải đến nơi núi Kỳ Xà Quật làm chỗ thường trụ nơi núi Linh Sơn này để mà nghe Phật dạy bảo cho cái trí lớn, ban bố cho cái sức thần lực lớn; tề tựu nơi đây để mà nghe cái bí mật thành tựu Phật đạo, nương cái đạo tu hành của Bồ tát. Cho nên đây mới nói rằng: Việc lợi mình đã xong, chứ có nói chi đến: việc lợi người đã xong đâu. Việc lợi người là việc của bồ tát đạo, phật đạo.
Việc lợi mình thì xong rồi, nhưng việc lợi người thì chưa xong đâu, còn phải tu hành Bồ tát đạo để thành tựu bồ đề nữa, mà bồ đề thì không phân biệt đó là phật bồ tát hay chúng sanh; chúng sanh cũng tu đạo bồ đề được, nhưng muốn tu thì phải biết, muốn biết thì phải cầu tìm tư duy học hỏi, trí lớn còn phải mở ra càng sâu rộng hơn nữa chứ.
Tên của các vị đó là: A-Nhã-Kiều-Trần-Như, Ma-Ha-Ca-Diếp, Ưu-Lâu-Tần-Loa Ca-Diếp, Dà-Gia Ca-Diếp, Na-Ðề Ca-Diếp, Xá-Lợi-Phất, Ðại Mục-Kiền-Liên, Ma-Ha Ca-Chiên-Diên, A-Nậu-Lâu-Ðà, Kiếp-Tân-Na, Kiều-Phạm Ba-Ðề, Ly-Bà-Ða, Tất-Lăng-Già-Bà-Ta-Bạc-Câu-La, Ma-Ha-Câu-Hy-La, Nan-Ðà, Tôn-Ðà-La Nan-Ðà, Phú-Lâu-Na Di-Ða-La-Ni-Tử, Tu-Bồ-Ðề, A-Nan, La-Hầu-La v.v… đó là những vị đại A-La-Hán hàng tri thức của chúng.
Những vị này là ai?
Những vị này đại diện cho một cái đẳng cấp, thứ bậc, công hạnh thần lực đều có sự sai biệt khác nhau.
Khi mình tu học mà thấy rồi đến được cái núi Kỳ Xà Quật này rồi, thì mình thấy có những vị này, mỗi vị đều có một cái tâm pháp riêng, phương pháp tu học thành tựu đều khác nhau. Trình độ của mình tới đâu thì họ sẽ gọi đặt cho mình cái tên của vị đó, khi cái trình độ của mình đã tiến lên rồi thì tự nhiên mình cũng được đổi tên luôn.
Tôi nói như vậy để quý vị dễ mường tượng ra cho dễ hiểu; không đơn giản là chỉ có hình thức là các vị này vị nọ này kia, mỗi vị đều đại diện cho một trình độ tu học hết.
Để mà tu học hiểu biết hết để tiến lên các hàng đại bồ tát, thì tùy theo sức lãnh thọ phước đức nhơn duyên phước nghiệp tu học của mỗi vị; cho nên lúc Phật Thích Ca thọ ký thành Phật cho các hàng đệ tử thành Phật thì đâu phải ai cũng thành Phật cùng lúc với nhau đâu.
Bởi vì Như Lai đã thấy được trình độ căn cơ của mình rồi thì mới thọ ký cho mình được, thọ ký ý là áng chừng thời gian thôi. Cũng giống như mình làm dự án tiến sĩ, đến bảy năm chi đó thì mình sẽ bước lên cái địa vị tiến sĩ được.
Tu đạo cũng vậy thôi, muốn thành Phật thì phải làm dự án Bồ tát đạo, để mà cái địa vị thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác nữa thì mới tiến lên được Phật đạo chứ.
Cũng như vậy thôi, thời Đức Phật có tới 1.250 vị A-La-Hán nhưng mỗi vị đều có sở trường riêng chứ cũng đâu có ai giống ai đâu, chỉ có Đức Phật Thích Ca mới gọi là đầy đủ hết mọi món thần lực thôi.
Lại có bực hữu-học và vô-học hai nghìn người.
Bậc hữu học là gì?
Bậc hữu học ở đây là những bậc đã có sự thành tựu nhưng sự thành tựu còn giới hạn, vẫn chưa hoàn toàn dứt hết được các lậu tâm kiết sử v.v... Phần thô thì được rồi, nhưng phần vi tế thì có thể chưa diệt trừ được hết tận gốc, còn phải học hỏi cố gắng thêm nữa, còn phải siêng năng thiền định để phá các chướng ngại vi tế bên trong tâm thức của mình nữa, còn phải khai cái tâm pháp ra càng lớn mạnh hơn nữa.
Ví dụ như các bậc: Tu-Đà-Hờn, Tư-Đà-Hàm, A-Na-Hàm, A-La-Hán v.v…
Còn bậc đại A-La-Hán hay bậc Duyên giác đại khái gọi là bậc vô học. Vô học là học xong cái căn bản các pháp ở thế gian rồi đó. Hai ngàn người là chỉ có hai người này thôi, hữu học và vô học thôi, ẩn ý là như vậy; đây là một nghĩa. Ai đã dự vào hàng thánh rồi, tùy nhân duyên có thể giáo hóa cho đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác cũng đều đến được đạo tràng này.
Rồi: Bà Tỳ-khiêu-ni Ma-ha Ba-Xà-Ba-Ðề cùng với quyến thuộc sáu nghìn người câu-hội.
Bà tỳ kheo ni Ma-ha Ba-Xà-Ba-Đề này là ai, là tất cả chúng tỳ kheo ni đệ tử của Đức Phật thôi; tất cả những người mà đang tu tập theo nghĩa lý của Kinh Pháp Hoa này, tất những những tỳ kheo đã vào chùa rời bỏ quyến thuộc thế gian, vào tu viện tu nơi chùa tháp, hoặc am tranh, tịnh thất; mà những vị này cũng chịu tu tập tin sâu tin tưởng kinh này.
Sáu nghìn người câu hội tức là muốn được câu hội thì phải dùng sáu căn mắt tai mũi lưỡi thân ý mà tu tập, đọc kinh thì phải dùng mắt mà nhìn để thấy đường thì mới đọc được chớ, đọc thì phải đọc bằng miệng lưỡi, đọc ra âm thanh nghe cái lời kinh đó thì phải có tai, đem ý ra để hiểu cái lời kinh, đem thân ra mà tu tập tìm hiểu đào sâu cái lý Pháp Hoa thì đó là sáu ngàn người câu hội đó thôi. Cái nghĩa chỗ này nó rộng, tôi tạm nói tới đây.
Cứ hiểu đơn giản như vậy thôi cho nó dễ, hiểu sao thì hiểu đừng rời cái chánh kiến là được rồi, trước mắt như vậy.
Rồi: Mẹ của La-Hầu-La là bà Tỳ-khiêu-ni Gia-Du-Ðà-La cùng với quyến thuộc câu-hội.
Mẹ của La Hầu La là ai?.. Là cái ý của mình đây.
La Hầu La là ai?.. La Hầu La là con của Phật, con của Phật là chúng sanh là cũng mình đây. Là những người phật tử đến chùa, thọ tam quy ngũ giới, ăn chay niệm phật, thọ bát quan trai giới họ cũng tu tập mà. Cũng trì tụng thọ trì kinh này mà, cũng lập đạo tràng đem theo quyến thuộc là sáu căn tụng Kinh Pháp Hoa tu mà; đó, thì họ là phật tử mà, phật tử nghĩa là con của Phật thôi chứ con của ai nữa. Thì Phật cũng coi mình cũng như La Hầu La thôi, chớ có phân biệt gì đâu.
Rồi tiếp nữa: Bực đại Bồ tát tám muôn người đều không thối chuyển ở nơi đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, đều chứng được pháp đà-la-ni nhạo thuyết biện tài chuyển nói pháp luân bất thối chuyển, từng cúng dường vô lượng trăm nghìn chư Phật, ở các nơi đức Phật trồng các cội công đức. Thường được các Phật ngợi khen, dùng đức từ để tu thân, khéo chứng trí tuệ của Phật thông đạt đại trí đến nơi bờ kia, danh đồn khắp vô lượng thế giới có thể độ vô số trăm nghìn chúng sanh.
Bực đại Bồ Tát tám muôn người đều không thối chuyển ở nơi đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác là gì?
Bực đại Bồ tát là những người có tấm lòng từ bi lớn, họ cũng sanh vào nhân gian thường trụ nơi thế gian để mà giáo hóa chúng sanh, hoặc thường trụ ở cõi pháp thân đầy đủ tám món giải thoát; tám món giải thoát này rộng lớn bao la, có kể ra cũng chưa vào được liền; vì đây là cảnh giới của tâm linh giải thoát, là cảnh giới của thiền định. Để có được nó thì cần phải trải qua cái thời gian tu tập bền bỉ lâu xa, cái phước hạnh sức tự tại rất lớn mạnh thì mới có được.
Đều chứng được pháp đà-la-ni tức là các hàng này không những đã thông suốt được các căn mà còn sở hữu nhiều cái pháp phương tiện giáo hóa chúng sanh nhạo thuyết biện tài nói pháp không chướng ngại; vào ra sanh tử giáo hóa chúng sanh rất chi là tự tại, mà không có bị nó ràng buộc nữa, bất thối chuyển mà.
Từng cúng dường vô lượng trăm nghìn chư Phật, tức là họ tu lâu đời lâu kiếp lắm rồi, theo chư Phật gần gũi nghe pháp tin hiểu thông được đại trí rồi, có rất nhiều vô lượng các công lao công đức rồi. Các vị này đều làm cho chư Phật hoan hỷ khen ngợi, luôn dùng cái đức độ từ bi để mà tu thân - khéo léo rõ hiểu cái phương pháp phương tiện để mà giáo hóa cho chúng sanh làm cho bọn họ đều đến được cái bờ bến an vui giải thoát.
Danh đồn khắp vô lượng thế giới là sao?
Là mình làm lợi ích cho chúng sanh giải thoát rồi, họ sanh về cái cảnh giới giải thoát rồi thì không sớm thì muộn trước sau gì họ cũng thành Phật, các vị này lại đi giáo hóa chúng sanh vô số nữa, vô số chúng sanh lại giải thoát đến bên bờ kia nữa thì họ phải nhớ đến ông tổ của họ chớ, mà có không nhớ đi nữa bao nhiêu thần lực mình cũng đã phó chúc cho những người tu đạo rồi thì mình với họ có khác nhau chi đâu, cũng là một thôi chớ, bình đẳng rồi là như nhau mà, đồng thể tánh thôi.
Tên của các vị đó là: Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-tát, Quán-Thế-Âm Bồ-tát, Ðắc-Ðại-Thế-Chí Bồ-tát, Thường-Tinh-Tấn Bồ-tát, Bất-Hưu-Tức Bồ-tát, Bửu-Chưởng Bồ-tát, Dược-Vương Bồ-tát, Dõng-thí Bồ-tát. Bửu-Nguyệt Bồ-tát, Nguyệt-Quang Bồ-tát, Mãn-Nguyệt Bồ-tát, Ðại-Lực Bồ-tát, Vô-Lượng-Lực Bồ-tát, Việt-Tam-Giới Bồ-tát, Bạt-Ðà Bà-La Bồ-tát, Di-Lặc Bồ-tát, Bửu-Tích Bồ-tát, Ðạo-Sư Bồ-tát v.v... các vị đại Bồ-tát như thế tám muôn người câu hội.
Văn thù là gì?.. Là cái văn minh, văn vẻ, lời nói nó thù thắng sâu xa vi diệu như cây kiếm trí huệ sắc bén có thể chém đứt phá tan mọi phiền não của màn vô minh đầy ắp.
Mà muốn tu được như vậy thì người tu học phải quán chiếu lắng nghe cái âm thanh nơi biển khổ thế gian mà phát cái lòng từ bi lớn như một người mẹ thương ngóng con mình là Quán Thế Âm Bồ Tát. Muốn được như vậy thì khởi lên cái chí lớn mạnh mẽ nơi thế gian này là Đại Thế Chí Bồ tát. Thường Tinh Tấn Bồ tát là không có lười biếng giải đãi buông lung lúc nào cũng ra công ra sức tinh tiến học hỏi cố gắng nỗ lực không ngừng. Tu tập thực hành không có gián đoạn, không có dừng lại giữa chừng, có nghỉ ngơi thôi chứ không có nghỉ hưu để mà rong chơi khắp chốn đâu - đi đâu thì đi, làm gì thì làm, lúc nào cũng canh cánh trong lòng cái sự tu của mình làm sao cho nó tăng tiến lên thôi, lúc nào cũng cố gắng phát huy; lúc này ngay tức thì sẽ cai quản chưởng quản được những cái châu báu bửu bối thần lực là Bửu Chưởng Bồ Tát, lúc này người tu đạo có được những cái vị thuốc có thể làm cho chúng sanh an lành vui vẻ tin tưởng là Dược Vương. Khi tin khi vui an lành được rồi thì chúng sanh nó dõng mãnh lên nữa, nói cho nó hiểu nó được cái tâm pháp lành mạnh rồi thì nó phát tâm buông xả bố thí nó bắt đầu nó nghe mình khuyên lơi nó theo; làm được như vậy rồi thì mới gọi là Dõng Thí Bồ Tát chớ. Làm được như vậy rồi thì mới giống như mặt trăng soi sáng cho chúng sanh trong đêm tối, mới tỏa sáng thì Bửu Nguyệt Bồ Tát, Nguyệt Quang Bồ Tát chính là như vậy thôi. Soi sáng được rồi thì phải sáng như trăng rằm vậy đó, ánh sáng viên mãn tròn đầy rồi thì là Mãn Nguyệt Bồ Tát - Khi ánh sáng trí huệ tròn đầy rồi thì mới mãn nguyệt được chớ, ánh sáng chưa tròn đầy làm sao gọi là Mãn Nguyệt Bồ Tát được. Lúc đó mới là có được đại thần lực lớn Đại Lực Bồ Tát mới thành tựu được chớ. Rồi càng ngày nó càng soi cho thế gian, trải qua cái thời gian lâu xa thì thần lực càng ngày càng lớn mạnh hơn nữa thì mới gọi là Vô Lượng Lực Bồ Tát. Vô lượng lực rồi thì mới tới rốt ráo Bồ tát đạo được chớ - đầy đủ thần lực của hàng đại Bồ Tát rồi thì trong tam giới này mới thực là bực siêu việt là Việt Tam Giới Bồ Tát - Siêu việt rồi thì phải ra công ra sức mà bạt độ nghiệp chướng giáo hóa cho chúng sanh một cách hoàn hảo thì mới thành được Di Lặc được chớ - mới đầy đủ phước báu nhơn duyên để chuẩn bị bước lên ngôi vị Phật được chớ. Khi chuẩn bị bước lên ngôi vị Phật như vậy thì tất cả những cái bửu tạng tích xa xưa của mười phương chư Phật đều nắm bắt rõ biết hết, đều được mười phương Phật giao phó hộ trì thì cuối cùng mới là một vị đạo sư thực thụ thì gọi Đạo Sư Bồ Tát.
Thì tất cả những vị này tất cả là mười tám vị, diện kiến được mười tám vị này các vị bồ tát như thế cũng là diện kiến được tám muôn người câu hội... Tám phương bốn hướng là đều có những vị Bồ tát như vậy đều trụ trong pháp này. Mình độ chúng sanh là mình hướng dẫn hắn tới thôi.
Lúc bấy giờ, Thích-Ðề Hoàn-Nhơn cùng quyến thuộc hai muôn vị thiên tử câu hội.
Thích Đề Hoàn Nhơn là ai?
Con người mình có bao nhiêu đốt xương sống?
- Ba mươi ba.
Ba mươi ba đốt sống này, tượng trưng cho ba mươi ba cảnh trời; nó có một cái ống dẫn đường khí lên trên. Như vậy ba mươi ba cõi trời nói nó xa hay gần nó cũng nằm trong thân mình thôi.
Thì trước hết mình cai quản khai mở được các luồng chân khí lên trên làm cho thông suốt làm chủ được các luồng khí này thì cũng tạm gọi là Thích-Đề Hoàn-Nhơn; nhưng chưa cai quản được thì chỉ là con thôi. Thì như vậy Khí người tu càng nhẹ thì các luồng chân khí càng thông.
Thì đây tức là tất cả những người tu tiên, tu thiện nghiệp, tu thập thiện nghiệp; cũng là người tu luyện tam hoa tụ đỉnh ngũ khí triều ngươn như vậy mà có phước báu sanh về cõi trời, hoặc là đã tái sanh xuống nhân gian mà muốn thọ trì tu trì kinh này thì Phật cũng hoan hỷ cho mình câu hội, tùy theo bổn tánh căn lành sức tu đều cho mình thọ hiểu hành trì hết.
Cùng quyến thuộc hai muôn vị thiên tử câu hội là những người đang tu và những người chưa chịu tu là một nghĩa thứ nhất; nghĩa thứ hai là hai muôn vị thiên tử câu hội là hai cái luồng khí âm dương đang lưu chuyển trong châu thân của mỗi con người; để người tu hoặc các hàng chúng sanh nương vào tạng pháp đó mà tu luyện trong bổn tánh tự thân các pháp đều có sẵn hết.
Thì trong thực tế trong cảnh tâm linh cũng có những vị gọi là Thích-Đề Hoàn-Nhơn chứ không phải không có. Nhưng ở nghĩa là đang ám chỉ con đường tu của mỗi người mà đã từng ở những cảnh giới của Thích-Đề Hoàn-Nhơn cai quản, hoặc những ai mà đã tái sanh ở nhân gian từng trụ ở cảnh giới đó mà có duyên với kinh pháp hoặc đang tu hoặc chưa chịu tu thì cũng được câu hội; những vị này còn nằm trong tam giới.
Nên phải biết; mình được câu hội, có kinh có sách; hoặc ở chùa, hoặc tới chùa chư Phật lưu kinh lưu pháp ở đó giảng bày cho mình có sẵn đó hết rồi mà mình không chịu tu đó là do mình chứ không phải do Phật bỏ rơi mình. Hai muôn vị thiên tử chỉ có hai người đó, thì mình cũng là con thiên tử rồi đây; họ cũng coi mình là con mà. Nhưng trình độ của mình yếu kém, phước báu mình mỏng thì cái chuyện làm người mà chưa tu là cái chuyện dễ hiểu.
Rồi: Lại có Minh-Nguyệt thiên tử, Phổ-Hương thiên tử, Bửu-Quang thiên-tử, bốn vị đại Thiên-Vương cùng với quyến-thuộc một muôn thiên-tử câu hội.
Tới chỗ này là người tu phải qua được chỗ tu của Thích-Đề Hoàn-Nhơn; đột phá được ba mươi ba tầng trời dục giới, trụ nơi cõi cao nhất của ba mươi ba tầng trời đó hiện tướng là sự bế tắc của khí mạch.
Rồi mới tiếp tục là những người họ có cái trí sáng Minh Nguyệt rồi đi được trong đêm rồi thì mình chính là Minh Nguyệt Thiên Tử; họ vẫn còn đi trong đêm đó, chưa có soi tới được ba mươi ba cõi trời; thần lực tạng thân chưa phá được ba cõi dục.
Khi mình có cái trí sáng Minh Nguyệt đi được trong đêm rồi, mình phổ rộng cái tư tưởng hương thơm của đạo đến cho cái trí của mình nó được thanh tịnh thì mình là con của Phổ Hương Thiên Tử.
Khi mình phổ rộng cái hương thơm của đạo được cho cái tâm tư của mình nó nhẹ nhàng nở hoa an lành được rồi thì thực sự mình mới tiến lên mình mới là Bửu Quang Thiên Tử, Bửu Quang Thiên Tử thì cái trí của bản thân phải tự dẫn dắt được cho mình cái đã; chưa nói đến dẫn dắt ai mình phải tự dẫn dắt soi sáng được cho mình cái đã, soi sáng được cho mình rồi thì mình gọi là Bửu Quang tỏa ra.
Thì lúc này mới trở thành Tứ Đại Thiên Vương được, mình không còn thiên tử nữa, soi sáng được cho mình thôi thì gọi là thiên tử, mà chưa soi sáng được mình mà đòi soi sáng cho người khác thì cái chuyện đó là hên xui thôi chứ phước đức thực sự không phải là chỗ bền chắc.
Mình đã là Bửu Quang Thiên Tử soi sáng ít nhất là phải soi được cho mình cái đã.
Soi sáng được cho mình rồi, mình sáng được rồi thì mới soi được cho người khác, mình không sáng mà đòi soi cho người khác thì cái chuyện đó là hơi vô lý. Soi sáng được mình rồi thì mình mới đủ cái phước báu để mình trở lại soi sáng cho người khác thực sự; thì mình không còn là thiên tử nữa.
Lúc này mới là Tứ Đại Thiên Vương, mà Tứ Đại Thiên Vương đây chính là mình làm chủ cái thân tứ đại này đã, với cái thân tứ đại này mình là ông trời rồi đây. Mình làm chủ bốn yếu tố; đất, nước, gió, lửa không bị nó ràng buộc chi phối; không bị nó quyến luyến đau khổ, quỵ lụy cảm xúc phiền não, thân nó đau khổ, tham sân si nó hoành hành.
Khi mình đã là Tứ Đại Thiên Vương này được rồi thì mình chỉ còn một quyến thuộc câu hội thôi, quyến thuộc đó là cái ý thanh tịnh, ý sáng suốt điều hành được cái pháp thân tứ đại nóng khổ này tiến đến cái đạo giải thoát.
Rồi tiếp: Tự-tại Thiên-tử, Đại tự-tại Thiên-tử cùng với quyến thuộc ba vạn Thiên-tử câu hội.
Khi mình có được sự tự tại thì mình cũng là Tự Tại Thiên Tử, tự tại đây là mình có thực sự thoát khỏi cái ý ràng buộc chưa, hay mình chỉ thoát được một phần nào thôi. Nếu cái tự của mình càng lớn thì mình là con của Đại Tự tại Thiên Tử; tức là con mắt của mình chưa phải là thánh nhãn nhưng cũng có sức tự tại.
Mà tự tại đây là cái gì tự tại?
Thì cùng với ba vạn quyến thuộc câu hội tức là ba cái nghiệp thân khẩu ý của mình mình ra sức mình tu cái thân khẩu ý này cho nó tự tại thì mình mới tự tại được ba cái quyến thuộc này, ba quyến thuộc nó cũng câu hội đây; đây là theo tướng thế gian.
Theo tướng đạo thì ba quyến thuộc này thuộc về ba cảnh giới của thân; trung tâm của ba nguồn năng lượng của tự thân.
Chủ cõi Ta-Bà: Phạm-Thiên-Vương, Thi-Khí-Ðại-Phạm, Quang-Minh Ðại-Phạm v.v... cùng với quyến thuộc một muôn hai nghìn vị thiên-tử câu hội.
Phạm Thiên Vương là gì?
Phạm Thiên Vương là chủ cõi Ta bà, mình đã làm chủ Ta bà này chưa, chưa hay không không nói nhưng mình đã làm chủ được cõi lòng mình chưa, nếu mình làm chủ được cõi lòng của mình thì mình cũng tạm gọi là Phạm Thiên Vương.
Mình nói mình làm chủ được cõi lòng mình rồi thì mình có làm làm chủ được các cái luồng khí mạch trong thân mình chưa, nếu mình chưa có thi triển làm chủ được cái thần khí của mình thì mình đâu phải là Thi-Khí-Đại-Phạm, chưa làm chủ được khí của mình thì làm sao có thể gọi là Quang-Minh-Đại-Phạm được, Quang-Minh-Đại-Phạm là đảnh đầu của mình có quang minh thật sự hay chưa; trên đỉnh đầu đó có một cánh cửa đại khái như là một năng lượng của vũ trụ; nếu chưa thông đạt được thì chưa phải là Quang-Minh-Đại-Phạm.
Rồi: Cùng với quyến thuộc một muôn hai ngàn vị thiên tử câu hội.
Tức muốn Quang-Minh-Đại-Phạm thì cùng với quyến thuộc sáu căn sáu trần cộng lại là mười hai quyến thuộc. Sáu trần mà không còn nhiễm rốt ráo trong sạch thì sáu căn cũng tự thông, sáu căn thanh tịnh rồi các khí mạch trong thân cũng tự khai thông. Các căn khai thông sáng ngời rồi thì gọi Quang-Minh-Đại-Phạm.
Có tám vị Long-Vương: Nan-Ðà Long-Vương, Bạt-Nan-Ðà Long-Vương, Ta-Già-La Long-Vương, Hòa-Tu-Kiết Long-Vương, Ðức-Xoa-Ca Long-Vương, A Na-Bà-Ðạt-Ða Long-Vương, Ma-Na-Tư Long-Vương, Ưu-Bát-La Long-Vương v.v... đều cùng bao nhiêu trăm nghìn quyến thuộc câu hội.
Có tám vị Long Vương là gì?
Tất cả các hạng người có cái tâm trời rồng, có thần lực tâm pháp của trời rồng mà từ tám phương bốn hướng mà thích làm vương làm tướng nhưng muốn cầu pháp cùng bao nhiêu trăm nghìn quyến thuộc câu hội tức là trăm ngàn ý của mình thì cũng đều câu hội.
Có bốn vị Càn-Thát-Bà vương. Nhạc-âm Càn-Thát-Bà vương, Mỹ-Càn-Thát-Bà vương, Mỹ-âm Càn-Thát-Bà vương, đều cùng bao nhiêu trăm nghìn quyến thuộc câu hội.
Nhạc Âm Càn Thát Bà Vương - tức là những người thích ca ngâm, ca hát. Hoặc là những người đẹp người mẫu hoa hậu mà có sắc đẹp mỹ lệ chi đó, Mỹ Càn-Thát-Bà chi đó mà họ cũng chịu học tu nhưng nhiều lúc họ vẫn còn tu càn tu thát thôi, tu ông tu bà thôi thì cũng được câu hội, miễn sao họ có cái tâm hướng thiện chịu làm lành thì cũng cùng với các quyến thuộc trăm nghìn nơi cái ý mà câu hội. Hoặc những người vừa đẹp vừa hát hay mà họ cũng chịu nữa thì quá tốt thôi, họ vào chùa họ tụng Kinh Pháp Hoa, hay ở nhà đọc ít nhiều chi đó cũng được, lễ Phật sám hối dâng hoa như vậy nhưng mà họ vẫn còn bao nhiêu trăm ngàn cái quyến thuộc câu hội như vậy thì nó được cái phước báu ít hơn.
Tất cả các hạng người mà chịu tu thì đều có cái chủng tánh của long vương gọi là rồng pháp cả.
Rồi: Có bốn vị A-tu-la vương: Bà-Trỉ A-tu-la vương, Khư-La-Khiên-Ðà A-tu-la vương, Tỳ-Ma-Chất-Ða-La A-tu-la vương, La-Hầu A-tu-la vương, đều cùng bao nhiêu trăm nghìn quyến-thuộc câu hội.
Bà-Trỉ nói đến những người hay cứng nhắc có lỗi nhiều nhưng dễ tự ái, dễ nổi nóng, khó chịu, nũng lẫy. Họ cũng vào chùa hoặc ở nhà thờ Phật tụng kinh; nhưng họ hay khởi ý sân, tâm hành thất thường, không có nhu hòa nhẫn nhục.
Khư-La-Khiên-Đà A-Tu-La là những người họ tu lâu rồi, họ đi chùa tụng kinh lâu lăm rồi, họ cũng có tu nhưng họ thích đem cái chuyện tham sân si phiền não của thế gian, cái tâm tư không có lành mạnh họ đem họ khiên vào bàn tán trong cái hội đạo tràng sanh ra cái chuyện không đáng có. Họ vẫn bị cái tâm Tu-La này nó dẫn dắt, họ tu rồi mà vẫn sân vẫn la làng la lối; họ có tu trì đọc tụng thọ trì thì vẫn gọi là nơi đạo tràng, có điều khác biệt là cái quyến thuộc tâm ý thế gian của họ trăm ngàn như vậy họ cũng dẫn theo câu hội.
Tỳ-Ma-Chất-Đa-La A Tu La Vương là những người cái tâm tánh bản chất của họ còn nhiều cái tật xấu, tâm ma; nó sử khiến tâm họ thường có những lòng hờn trách hơn thua, soi mói giận dữ nó ăn sâu vào tâm thức; nhưng họ vẫn biết tu chịu tu, vẫn tụng kinh lễ Phật trọng pháp; nhưng tâm pháp họ vẫn còn nhiều bản chất yếu kém chưa có trừ bỏ được.
La Hầu A Tu La vương, là những người vẫn thường hầu cận các vị thầy, các vị đại đức, hòa thượng v.v... Họ gần gũi cúng dường lễ Phật dâng hoa, tụng kinh làm việc phước nhưng tâm tư của họ cũng còn nhiều cố chấp phiền não nó não hại, họ dễ phiền não khởi cái khó chịu bực dọc, thích ra lệnh. Những người như vậy họ đều có tu học nhưng tâm pháp yếu kém cũng cùng với trăm ngàn quyến thuộc đều đến câu hội như vậy.
Có bốn vị Ca-lâu-la vương: Ðại-Uy-Ðức Ca-lâu-la vương, Ðại-Thân Ca-lâu-la vương, Ðại-Mãn Ca-lâu-la vương, Như-Ý Ca-lâu-la vương, đều cùng bao nhiêu quyến thuộc câu hội.
Đại-Uy-Đức Ca-Lâu-La-Vương là những vị tu hành lâu năm rất có uy, hoặc đại tỳ kheo tăng hoặc các sư bà có cái uy là uy tín, đức là đức độ - cái đạo đức; được nhiều người tôn trọng nhưng sự tu của họ cũng có giới hạn nào đó thôi, họ cũng chưa giải thoát, cũng chưa hoàn toàn trừ bỏ được tất cả những phiền não của thế gian, nhưng họ chỉ có một chí hướng là cả đời phục sự cho đời thôi. Những vị này thường hay ca ngợi cái công đức của cái việc tu hành, giảng nói rao bày phật pháp.
Đại Thân Ca Lầu La Vương là những người thường thân cận với đạo, gần gũi chúng sanh, là phật tử thuần thành, hoặc giả nhiều người họ cũng làm ca sĩ họ hát những bài nhạc phật pháp, họ thân cận tiếp cận với chúng sanh để ca ngâm khen ngợi cái việc công đức tu học thọ tam quy ngũ giới; họ mặc áo tràng thành tâm đi bái Phật, họ gặp gỡ giao lưu với nhiều người mà vẫn giữ được cái lòng tin đối với pháp, âm thầm tu họ học tu thôi v.v… Họ tu thành được bao nhiêu chưa biết, nhưng trước hết họ đã có cái niềm tin căn bản nơi phật pháp rồi là cứ thế họ tùy lúc tán dương thôi, họ vẫn là một chúng sanh bình thường nhưng ít nhiều chi họ có cái phước báu thiện nghiệp của riêng họ hết.
Đại Mãn Ca Lầu La vương là những người họ có cái ước nguyện lớn, cái chí lớn, họ tìm tòi đến cửa đạo họ siêng tu họ thấy được nhiều niềm vui trong đó, họ thấy được sự giả tạm của đời người; tâm ý lúc nào cũng hướng đến cái đạo giải thoát. Những người này họ vẫn thường thích ca ngợi cái công đức, họ ca ngợi một cách thành tâm như vậy.
Rồi cuối cùng là Như-Ý Ca-Lầu-La-vương, tức là những người như cái ý của họ là họ nói thôi. Nếu mình hay thì họ khen mình, mình đàng hoàng tử tế họ cũng theo ý của họ khen mình, khen mình hay chê mình nhưng họ cũng có cái trí tuệ để nhìn ra cái hay cái dở của mình. Thấy được cái hay cái dở của mình thì thấy nhưng cái giới hạn tu của họ cũng chỉ tới cái mức của họ đó thôi.
Vua A-Xà-Thế, con bà Vi-Ðề-Hi, cùng bao nhiêu trăm nghìn quyến thuộc câu hội.
Vua A-Xà-Thế là những làm vua làm quan, nhiều người họ cũng có cái niềm tin đối với phật pháp; nhiều khi họ cũng âm thầm lặng lẽ họ tìm hiểu tìm đến đạo. Có người họ lặng lẽ họ tu họ theo, có người thành tín thể hiện lòng tu, có nhiều người họ gần gũi họ cũng biết. Còn con bà Vi-Đề-Hi cùng với bao nhiêu trăm nghìn quyến thuộc câu hội là họ vẫn còn nhiều cái còn sống với thế gian; sống với cái trăm ngàn cái nghĩ phiền não của riêng họ, họ cũng đem vào cái đạo tràng để mà câu hội như vậy.
Cả chúng đều lễ chân Phật, lui ngồi một phía.
Thì tất cả những người ở trên đây họ đều là những người có cái niềm tin nơi phật pháp, ít nhiều gì họ cũng có cái ý chịu tu. Họ tu thì họ ngồi một phía, một phía đó là tùy theo cái chỗ trụ chỗ biết của họ mà họ ở đó thôi.
Lúc bấy giờ, đức Thế-Tôn, hàng tứ chúng vây quanh cúng dường cung kính ngợi khen tôn trọng, vì các vị Bồ-tát mà nói kinh đại-thừa tên là: 'Vô-Lượng-Nghĩa Giáo Bồ-tát Pháp Phật sở hộ niệm'.
Hàng tứ chúng vây quanh thì tứ chúng là gì?
Hàng tứ chúng là Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di vây quanh cúng dường đây là nói theo nghĩa của đạo. Còn nói theo nghĩa của đời thì tứ chúng tức là mọi người ở phía xung quanh, tức là những người như: trẻ con, thanh thiếu niên, người trung niên, cuối cùng là lão niên; bốn hàng chúng đó vây quanh.
Tức là họ ngồi dưới chánh điện hoặc ban thờ chi đó, của một đạo tràng nào đó, hoặc đạo tràng của nhà mình cũng được; thì trong đó cũng có những người họ cũng tu đạo bồ tát thì Đức Thế Tôn cũng vì họ mà nói kinh đại-thừa tên là: 'Vô-Lượng-Nghĩa Giáo Bồ-tát Pháp Phật sở hộ niệm'.
Rồi cúng dường tức là có những người họ thường đi lễ Phật tụng kinh học pháp; hoặc có những chúng sanh chưa biết tu nhiều nhưng cứ nửa tháng hoặc một tháng chi đó họ tập đi chùa, rồi biết dâng hoa quả trái cây lên cúng trên bàn Phật. Ở nhà thì mỗi ngày sáng sớm họ cũng dâng hương thắp nhang họ chắp tay cầu nguyện với Đức Phật; thì những điều này Phật đều hay biết hết.
Rồi họ ngồi họ tụng kinh, họ tán dương tôn trọng ngợi khen Phật bằng những bài kệ kinh văn.
Thì lúc này: vì các vị Bồ-tát mà nói kinh đại-thừa tên là: 'Vô-Lượng-Nghĩa Giáo Bồ-tát Pháp Phật sở hộ-niệm'.
Tức lúc này ông Phật ổng đã âm thầm cùng với thánh chúng hỗ trợ cho mình rồi, kinh Đại thừa đây là ổng đã giảng giải nhiều rồi, lấy kinh lấy sách ra đó, Phật nói nhiều lắm đâu có thiếu món chi đâu.
Nhưng ở đây kinh Đại thừa này tên là: Vô lượng nghĩa, tức là phải tự hiểu lấy cái chơn lý mình tìm tòi khám phá cái nghĩa lớn giải thoát, vô lượng nghĩa rồi thì nó nhiều nghĩa lắm, vô lượng nghĩa đó cũng chỉ có một nghĩa giải thoát đó thôi chứ không nhiều. Thì Vô lượng nghĩa này giáo bồ tát pháp phật sở hộ niệm - tức là mình tu thì chư Phật sẽ hộ niệm, tu là nó có cảnh giới của nó hết - mình tu Mật tông hay tu Tịnh độ gì đó đi nữa thì mình phải hiểu được cái lý này, cái lý này Phật đã nói hết rồi, Kinh Pháp Hoa đã lưu bày trong thế gian này hết rồi, cái nghĩa Đại thừa cũng có trong thế gian này hết rồi - thấy được hay không, thấy được bao nhiêu thì phải tùy sức tùy căn tánh của mình thì Phật pháp đều hỗ trợ hộ niệm cho mình hết.
Nói kinh này xong, đức Phật ngồi xếp bằng nhập vào chánh định 'Vô-lượng nghĩa-xứ', thân và tâm của Phật đều không lay động.
Nói kinh này xong tức là tới đây Phật đã nói kinh này xong rồi, mà thực tế từ đầu cuốn kinh cho tới lúc này thì có thấy ông Phật ổng lên tiếng bao giờ đâu. Ổng không lên tiếng nhưng mà ổng âm thầm ổng tìm cách để ổng cho mình biết, ổng cho mình tìm hiểu cái con đường tu nó đơn giản như vậy thôi chớ không có gì khó khăn, khó hiểu gì hết đâu.
Nói kinh này xong, Đức Phật ngồi xếp bằng nhập vào chánh định;
Thấy không lúc ổng nói kinh này ổng đâu có ngồi đâu, nói xong rồi ổng mới ngồi xếp bằng. Thì cũng vậy thôi, thực tế Kinh Pháp Hoa này cũng đâu có ai nói đâu, nãy giờ chưa thấy ông Phật ổng lên tiếng mà. Nhưng nói chưa nói là sai, ổng nói nhưng đâu phải ổng nói bằng ngôn ngữ đâu; ổng đã lên tiếng đâu mà nói ổng nói bằng ngôn ngữ.
Cái chỗ này là hơi xa vời rồi đây, ổng không nói tại sao lại nói là ổng đã nói rồi. Nói rồi tức là mình hiểu rồi, thấy hiểu rồi tức là thấy Phật đã nói rồi, hiểu cái phương tiện của Phật rồi, hiểu cái hộ niệm của Phật rồi thì đó chính là cái lý của Kinh Pháp Hoa.
Nhưng mà kinh này phải nương vào phương tiện đó chính là ngôn ngữ viết ra đây, kinh văn viết ra đây cho chúng ta đang đọc đây đều do chư Phật họ biên soạn ra hết - thì đó cũng là Kinh Pháp Hoa, nếu không có cuốn Kinh Pháp Hoa này thì làm sao có thể hiểu được ông Phật ổng nói Kinh Pháp Hoa như thế nào, ổng cao siêu như thế nào, cái nghĩa lý giải thoát nó như thế nào - cho nên cái kinh văn này, cái lời lẽ trong Kinh Pháp Hoa này cũng đích thị là Kinh Pháp Hoa chứ không phải là không. Thì mình tu học phải nương vào những cái lời lẽ trong kinh này, nghĩa lý sâu xa trong kinh này thì đó mới thực sự là mình đang thọ trì đọc tụng Kinh Pháp Hoa.
Rồi: Vô lượng nghĩa xứ. Vô lượng nghĩa xứ tức là gì?.. Tức là kinh này nó có vô lượng nghĩa, tất cả các tạng pháp bí mật sâu xa đều tuyên bày rõ nói trong kinh này hết, tất cả các hàng Bồ tát đạo Phật đạo muốn thành tựu được Vô thượng Bồ đề đều phải nương về kinh này.
Kinh này vốn nó không có ngôn ngữ mà. Cho nên nè: Thân và tâm của Phật đều không lay động; không lay động sao mà nói kinh được, nói kinh được thì phải lay động chớ.
Vì sao không lay động?
Vì Đức Phật đã nói kinh này xong rồi, mà trên thực tế có nói cái gì đâu. Cho nên ngày Đức Phật còn tại thế có một hôm Ngài giơ một cành hoa sen lên mà cả đại chúng không có ai hiểu, đại chúng nhìn nhau không biết chuyện gì xảy ra đây, ai nấy loay hoay quay lên quay xuống tò mò không hiểu ổng Phật ổng làm vậy để làm gì. Thì tự nhiên thấy ổng Ca Diếp ổng cười, ông Phật ổng cũng cười lại. Đơn giản vậy thôi, hai ông này đâu có nói gì với nhau đâu, nhưng ổng hiểu nhau thì hai ổng cười qua cười lại vậy thôi chớ.
Rồi nữa: trước khi nhập niết bàn ông Phật ổng nói một câu nữa: trong bốn chín năm giáo hóa ta chưa từng nói một lời nào.
Gì mà lạ vậy?
Ổng thuyết tam tạng kinh điển, ổng nói thao thao bất tuyệt như vậy rồi bây giờ ổng kết một câu: Ta chưa từng nói lời nào; nếu không phải ông nói thì là người khác á, không có ai trả lời được hết, mấy ngàn năm nay không ai lý giải nổi hết.
Thì bây giờ không lý giải được thì phải làm sao?
Thì cũng phải tin là bốn mươi chín năm đó ổng đã thuyết ra tam tạng kinh điển thôi chớ, ổng cao siêu quá thì mình phải chấp nhận mình không hiểu được cái ý nghĩa thật sự của cái điều mà ổng muốn nói là gì thôi.
Rồi mình đặt một câu hỏi nữa: Từ sau cái ngày ổng nói: Ta chưa từng nói lời nào đó, hoặc sau lúc ổng nhập diệt cho đến mấy ngàn năm nay ổng có nói cái lời nào nữa không. Ổng nói vậy là đúng hay sai?.. Ổng có nói một lời nào chưa, rồi hỏi ổng một câu:
Thế tam tạng kinh điển này là do ai nói ra?
Thì đây là một cái nghĩa cao siêu vô cùng, cái lời nói của ổng là cái lời nói của vô tướng; muốn hiểu được cái lời nói của ổng thì phải hiểu bằng tâm pháp trước, nếu không có tâm pháp thì nhất định sẽ không hiểu ông Phật ổng nói gì.
Thì bây giờ mình không biết ông Phật ổng nói vậy có ý gì nhưng mình cũng phải nương vào những gì ổng để lại trong kinh văn kinh điển học đạo chứ không lẽ mình nghe ổng nói vậy rồi từ nay mình không đọc kinh nữa.
Thì bây giờ ông Phật ổng đang ở đâu?
Ổng ở trong cảnh giới của pháp thân ổng đang âm thầm hỗ trợ điều hành, ổng đang quan sát coi ngó hộ niệm cho người tu hành thôi. Ổng được đúc tượng tôn thờ khắp nơi đó, chùa nào chẳng có Phật- muốn lạy Phật thì đi lên chùa thôi, không nữa thì thờ Phật ở nhà rồi lạy ổng cũng được mà.
Rồi mình thờ như vậy, cung kính cúng dường dâng hoa, tụng kinh niệm phật ăn chay như vậy ổng có biết không. Biết hay không không biết nhưng mình chắc chắn tin là ổng biết hết, nhưng muốn ổng để ý thì mình phải tu cho đàng hoàng thành tâm cái đã; muốn được cái gì, hứa cái gì, nguyện cái gì thì cứ đối diện trực tiếp nói với ổng thôi. Nhưng mà thân và tâm ổng đều bất động mà, đâu thấy ổng nói lời nào đâu. Thì bây giờ mình muốn biết được ổng muốn gì mình phải tìm hiểu kinh điển mình tu trước cái đã, tu được rồi thì cái chuyện gặp ổng hay hỏi ổng cái gì thì tùy ý mình.
Mà mình tu không đàng hoàng ổng cũng biết hết chứ không phải ổng không biết gì đâu, ổng biết nhưng ổng cũng đâu có thấy ổng nói gì; thì cần gì phải nói đâu, đạo nó có ở đó - pháp có ở đó tu không được rồi tới lúc phải chịu khổ thì phải tự chấp nhận thôi.
Muốn ổng hộ niệm cho để chứng biết được tâm linh, để có thần lực, để giải thoát khỏi cái lòng phàm phu, thậm chí muốn thấy được ổng thì chí ít phải có lòng thành tu cho miên mật chứ cũng đâu phải đơn giản đâu. Lúc nào ổng cũng ngồi nói Kinh Pháp Hoa cho mình nghe hết á, mình nghe được ổng bao nhiêu thì đó là do sức tu của mình; riêng ổng thì ổng vẫn ngồi không lay động ở đó, ổng ngồi ổng quan sát mình.
Nếu mình ngồi trong đạo tràng mình tu ổng ngồi đó ổng thấy mình tu miên mật rồi, đọc kinh trì tụng đúng pháp đủ pháp rồi, lòng thành đủ rồi, trang nghiêm rồi thì là ổng thấy mình rồi.
Thì: Khi đó trời mưa hoa Mạn-đà-la, hoa Ma-ha Mạn-đà-la, hoa Mạn-thù-sa, hoa Ma-ha Mạn-thù-sa, để rải trên đức Phật cùng hàng đại chúng; khắp cõi Phật sáu điệu vang động.
Khi đó trời mưa hoa mạn-đà-la tức là ổng cử chư thiên đến, thì chư thiên họ mới rải hoa cúng dường. Khi họ rải hoa xuống thì trong lúc mình nằm hoặc mình ngồi, mà đa số là nằm - họ mới rải hỏa xuống thì trên đỉnh đâu mình nó có một chùm khí như là điện vậy, nó làm cho đầu mình tê tê nhẹ nhàng. Rồi cái thân của mình nó bỗng nhiên nhẹ nhàng khinh an, cảm thấy rất là kỳ lạ, rất hoan hỷ vui vẻ, tức đó nhờ vậy mình lại càng tinh tấn tin tưởng hơn.
Rồi: Hoa ma-ha mạn-đà-la cũng vậy thôi, nhưng khác ở chỗ là cái cảnh giới của mình nó sâu hơn một chút. Thần thức của mình có thể chu du bay dạo ở những cảnh trung thiên giới - những nơi rất hoành tráng tráng lệ nguy nga, cây cối rất hùng vỹ đẹp lạ khác hẳn ở thế gian này. Thì đó là cũng nhờ những cái luồng khí quang thanh tịnh của chư Phật phóng xuống làm cho thân tâm của mình thanh tịnh. Rồi họ cũng phương tiện tạo ra những giấc mơ kỳ lạ và thú vị để mình học hỏi ở trong đó trước.
Hoa ma-ha mạn-thù-sa tức là mình tu trì đạt được tới đó rồi thì họ cũng cúng dường cho mình hoa mạn thù sa, tức là cái cảnh giới của thức lúc này nó thù thắng hơn; nó làm cho mình hiểu mình giác ngộ ra những cái điều vi diệu của pháp. Mình càng đi sâu vào tâm thức hơn nữa thì nó lại càng thấy như được cúng dường hoa ma-ha mạn-thù-sa vậy.
Để rải trên Đức Phật cùng hàng đại chúng; khắp cõi Phật sáu điệu vang động. Tức là họ rải họ tung lên bên trên Đức phật sau đó nó rớt xuống các hàng đang tu tập đại chúng dưới này. Lúc này khắp cõi Phật sáu điệu vang động, là sáu căn của nó nằm trong sáu cõi mình chưa ra khỏi được chỗ đó, hôm nay mình được nương vào oai lực của Chư Phật mà nó đều rúng động khắp sáu cõi sáu căn của mình. Thân tâm mình vui vẻ hoan hỷ, mình phát khởi cái lòng thành càng bền sâu hơn thì tức là đã rúng động rồi.
Lúc bấy giờ, trong chúng hội, các hàng: Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, cận-sự-nam, cận-sự-nữ, Trời, Rồng, Dạ-Xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, nhơn, phi-nhơn và các vị Tiểu-vương cùng Chuyển-luân thánh vương, các đại chúng ấy đều được thấy việc chưa từng có, vui mừng chắp tay một lòng nhìn Phật.
Thì lúc bấy giờ đây những cái cảnh tượng như vậy mình có bao giờ được thấy đâu; tất cả những hàng đại chúng đang tu ở dưới nhân gian đây nè. Từ tỳ kheo, cho tới tỳ kheo ni, cận sự nam, cận sự nữ; những người có cái tâm của trời, rồng, dạ xoa, càn thát bà, a tu la, v.v... đây. Nhờ tu thọ trì đọc tụng Kinh Pháp Hoa này mà được thấy việc chưa từng có- thấy được cảnh giới như vậy rồi thì vui mừng quá, thấy tu được linh ứng quá thì lúc này mới vui mừng chắp tay một lòng nhìn Phật. Tức là cái tâm mình hướng đến Phật đó.
Bấy giờ, Đức Phật từ nơi tướng lông trắng giữa chặng mày phóng ra luồng hào quang chiếu khắp cả một muôn tám nghìn cõi ở phương Ðông, dưới thời chiếu đến địa ngục A-Tỳ, trên suốt thấu trời Sắc-Cứu-Cánh. Chúng ở cõi này đều thấy cả sáu loài chúng sanh, ở các cõi kia.
Từ nơi tướng lông trắng tức là từ nơi cái tướng trắng bạch, thanh bạch, nơi con mắt giữa của mình đây là cái tâm phóng ra luồng hào quang hiểu biết là cái thần trí của mình được chư Phật hộ niệm mình học hỏi được mình nhìn thấy mười tám cái cõi khổ ở phương Đông tức là ở đó rất là đông đúc, thì ở phía dưới thời chiếu đến địa ngục A-Tỳ là địa ngục tầng thứ mười tám là nó ở dưới cùng, rồi lên tới tầng trời Sắc Cứu Cánh thì cứ tạm hiểu là cái cõi trời cao nhất trong chín phẩm sen vàng lên giải thoát; rồi có chỗ họ lại gọi là Cửu Trùng Thiên.
Rồi ở phía trên mình cũng nhìn thấu cõi trời Sắc Cứu Cánh đó; cõi trời Sắc Cứu Cánh như ở bên đạo Hin-đu họ gọi thì đó là cõi của trời Đại Tự Tại Thiên; bây giờ đạo Hin-đu người ta gọi là thần Shi-va thường trụ ở đó, mà Đại Tự Tại Thiên cũng tức là pháp thân Phổ Hiền, hay còn gọi là Kim Cang Tát Đỏa cũng được.
Thì đây là những điều hết sức bí mật, những cái không dễ gì một người tu tận mắt chứng kiến hiểu rõ thấy biết tin được, chỉ nghe kể sơ sơ vậy thôi chứ chưa bao giờ đến đó; thì điều này tôi có nói thật đi nữa thì cũng chưa có chứng minh được; khi nào tu tập được chứng biết rồi thì bản thân mỗi người tự kiểm chứng lấy thì tự nhiên chúng ở cõi này đều thấy cả sáu loài chúng sanh, ở các cõi kia.
Rồi: Lại thấy các Đức Phật hiện tại nơi các cõi kia và nghe kinh pháp của các Đức Phật ấy nói. Cùng thấy nơi các cõi kia, các hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, cận-sự-nam, cận-sự-nữ, những người tu hành đắc đạo.
Lại thấy các Đức Phật hiện tại nơi các cõi kia và nghe kinh pháp của các Đức Phật ấy nói. Tức là tuy mình ở cõi này, còn các Đức Phật lại ở các cõi kia nhưng mà ổng cũng đã ở đó ổng hộ niệm trợ lực cho mình tu rồi và mình nghe pháp của ổng nói cũng ở cõi này thôi chứ đâu phải đợi chết rồi mới nghe được pháp của ổng nói đâu.
Rồi cùng thấy ở cõi kia những người tu hành đắc đạo tức là những người họ đã từng tu; hoặc tu chung với mình, họ ngồi gần mình trong một đạo tràng thì họ cũng một cõi cùng nhau cũng muốn tu hành đắc đạo đây.
Rồi: Lại thấy các vị đại Bồ Tát dùng các món nhân duyên, các lòng tín giải, các loại tướng mạo mà tu hành đạo bồ tát, lại thấy các Đức Phật nhập niết bàn, lại thấy sau khi các Đức Phật nhập niết bàn, đem xá lợi của Phật mà dựng tháp bằng bảy báu.
Lại thấy các vị Đại Bồ Tát là sao?.. Thì cái lại thấy này là ai thấy; đơn giản mà nói để mà thấy được các vị đại bồ tát là đâu phải đơn giản. Tức cái ông mà thấy được đây, là không phải là hạng vừa rồi, phải hàng Phật hoặc Như lai chi đó mới thấy nổi, ít lắm cũng phải là đại Bồ tát mới thấy nổi.
Nếu mà một người tu đạo ít nhiều chi mà mình cũng không thấy được một chút gì, thì chí ít mình cũng phải hình dung được phần nào để mà phát triển cái đạo nghiệp của mình cho lành mạnh, như vậy cũng là từ từ mới thấy được.
Mà ở trong kinh này đâu có nói ai thấy, không nói Phật thấy cũng không nói Bồ tát thấy. Thì ai thấy?.. Những người thấy được cái lý giải thoát thấy, những người có thần lực tâm pháp lớn mạnh, có đại trí đại lực thấy; họ sâu vào vào thiền định để mà quán chiếu thấy biết cái sự hành đạo của các hàng bồ tát.
Khi mà bồ tát thấy được rồi thì thấy cái gì?
Thấy các bồ tát dùng các món nhân duyên; nhân duyên là gì mà phải dùng?
Nhân duyên gì thì nhân duyên rồi cũng phải lấy cái nhân từ nhân đức trước cái đã; phải có cái từ tâm quyết tâm, cái nhân bồ đề chắc trực lớn mạnh thì mới dùng được các món nhân duyên của bồ tát này.
Thì từ cái nhân này nó mới tạo ra cái duyên tức là duyên lành.
Chừ muốn giáo hóa chúng sanh thì phải có cái duyên lành với chúng sanh chớ, mà muốn có duyên lành với chúng sanh thì đại Bồ tát phải có nhiều cái bí quyết, nhiều cái phương pháp để mà tiếp cận thị hiện ở đời, cố gắng hỗ trợ cho chúng sanh tùy theo căn tánh mà gieo cái căn lành duyên lành cho bọn nó chớ.
Khi mà đã gieo được cái nhân lành, duyên lành cho chúng sanh thì bồ tát nương theo đó tiếp tục mở mang cái lòng tin, cái sự tin tưởng cho hắn càng sâu chặt hơn. Lúc này khi thấy thời cơ đã đến rồi thì bồ tát mới dùng phương tiện để làm cho cái lòng thành của họ nó càng tín hơn nữa.
Khi mình đã tín thật sự rồi, lòng thành đã tỏ thật sự rồi thì bồ tát mới giảng giải các pháp cho mình hiểu càng rộng ra thêm; làm cho căn lành của mình càng ngày nó càng sáng rực ra thêm.
Nếu căn lành của mình nó u mê quá, mình cứng đầu quá, mình kém cỏi quá; lòng từ bi trí tuệ của mình không có, niềm tin cái tín của mình không đủ, duyên lành không có; mình không có chuyên tâm để học đạo đào sâu cái lý giải thoát thì bồ tát đâu có cơ hội để mà tiếp cận mình đâu mà dạy đạo cho mình.
- Yêu ma quỷ quái hắn dụ dỗ hắn hoành hành khắp nơi rồi, tham sân si hắn xâm chiếm tâm can hắn theo ma theo nghiệp; hắn tạo ác nghiệp rồi.
Ai khuyên bảo cũng không nghe, không có ngộ được một chút chi cái cảnh đời giả tạm này hết, không có cái lòng nhân từ, không hiểu được cái đạo làm người rồi thì chắc chắn cái ác nghiệp hắn cũng đang trực chờ mình là không bao giờ xa vời. Nhân quả hắn không bao giờ sai, không hiểu được cái lý nhân quả để mà lo tu đạo thì làm gì có cái đạo này đạo nọ; chỉ chờ có tam đồ ác đạo thọ khổ, chịu khổ thôi. Không than trách được.
Mà các lòng tín giải đây là chi?
Các lòng là các cái tâm cái ý của mình nương theo cái pháp như đã thấy biết từ cái trí cái cảm nhận của mình mà tín giải tìm ra các sự thật của đạo. Tín là cái niềm tin đã rõ ràng rồi, đã chứng biết được các pháp một cách minh bạch rõ ràng rồi thì mình mới nương vào đó mà giảng giải cái chân lý, cái lý lẽ sống, cái lý lẽ tu đạo để giải thoát cho các hàng chúng sanh các loại tướng mạo căn cơ tu học khác nhau mà đều làm cho họ tu hành cái đạo bồ tát.
Đạo bồ tát ở đây là gì?
Đạo bồ tát rộng lắm, hắn rộng mênh mông bao la luôn, mà nó rộng hay hẹp cũng là do cái tâm của mình tạo ra hết.
Rồi tiếp tục: Lại thấy các Đức Phật nhập niết bàn.
Ai thấy các Đức Phật nhập niết bàn, niết bàn là ở đâu mà thấy?
Thì đối với các vị Bồ tát các vị Phật thì chỉ có hai cõi niết bàn, nhưng thực chất với mới mấy ổng cũng chỉ là một thôi chứ không phải hai.
Nhưng thôi cứ tạm hai cõi cho hắn dễ hiểu: một cõi gọi là cõi pháp thân, còn một cõi còn lại gọi ở thế gian này đây thôi.
Nói thì nói vậy; chứ một khi chúng sanh phàm phu mình chưa giải thoát được khổ đau, địa ngục trần gian đang thiêu đốt tâm can họ khổ não phiền muộn thì ở đây là địa ngục trần gian chứ niết bàn gì ở đây; hắn bi lụy, hắn đắng cay muôn phần thì sao mà gọi là niết bàn được.
Nhưng không sao. Khổ mấy thì khổ, mấy ông Bồ tát ổng cũng đâu có sợ; đủ thần lực mạnh mẽ rồi thì đâu còn sợ, ổng ra vào sanh tử như ăn cơm bữa thôi chứ có sợ chi đâu; mấy ổng xuống mấy ổng tu đạo bồ tát bồ đề giúp cho chúng sanh chứ có gì đâu mà sanh với tử. Mà nếu có sanh tử đi nữa thì cũng vì chúng sanh mà chịu khổ thôi. Mấy ổng khác mình là mấy ổng tự tại hơn, đến đi không có một chút sợ hãi nào hết.
Cho nên mới có câu kinh nè: Quán Tự Tại Bồ tát hành thâm bát nhã ba la mật đa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách...
Quán tự tại tức là ổng đã tự tại rồi cho nên mới gọi là quán tự tại chớ; chưa tự tại được sao gọi là quán tự tại được. Hành thâm rồi mà, hành thâm tức là ổng đi lại tự do bất cứ nơi nào ổng muốn, ổng hóa hiện mọi chốn mọi nơi mà, thâm sâu lắm.
Mà ổng tự do tự tại như vậy để làm gì?
Để ổng đi giúp ích cho chúng sanh đây, chứ không lẽ ổng đi chơi đâu; không đi chơi mà cũng như dạo thôi chứ có gì đâu.
Ở dưới thế gian đứa nào hắn muốn tu thì hắn hú ổng, hắn chỉ cần: “Nam mô Quán thế âm bồ tát”. Phát khởi cái lòng thành mà niệm thì nghiệp chướng nó lần tan, ngũ căn hắn trong sạch từ từ mới thấy được con đường sáng mà đi chứ.
Niết bàn là ở thế gian này thôi chứ ở đâu, cho nên trong Kinh Hoa Nghiêm nói thế này: Ra khỏi thế gian nhưng chẳng rời thế gian. Tôi nói tới đây là đang nói tới công hạnh của Bồ tát; chúng sanh nghe xong coi chừng rối trí.
Cõi pháp thân là gì: Cõi pháp thân rất là rộng lớn, tùy theo mỗi vị đều các cảnh giới khác nhau hết.
Giờ ví dụ như cõi A Di Đà đi, thì Phật A Di Đà thì phải ở cõi A Di Đà chứ không lẽ ở đâu.
Đúng không?
Nhưng mà giờ mình ở thế gian thì ổng cũng phải ở quanh đây thôi, hoặc chi đó ổng cử người cử hộ pháp theo dõi mình làm chi nghĩ chi, niệm được bao nhiêu, hoặc Nam mô Quán thế âm bồ tát mình niệm miết như vậy thì không ai nghe à?
Ổng không nghe hết nhưng ổng là giáo chủ cõi Tây Phương Cực Lạc mà, ổng có quyền lực lớn lắm chớ, ổng phân thân muôn ức chứ đâu phải không làm được.
Không lẽ không có ai nghe à, mà nhiều người niệm như vậy một mình ổng nghe sao nỗi, mà ổng có rảnh rỗi để ổng ngồi ổng nghe mình niệm miết như vậy không. Thì trước hết ổng có thần lực ổng nghe được hết, còn không nữa ổng phải có cái phần mềm chi đó ổng quản lý được hết những thành viên mà tham gia vào cái mạng lưới quản lý của ổng, ổng có công ty là các nhân viên Bồ tát, Thánh chúng thiếu gì đâu; rồi ổng cũng có các đối tác là các Đức Phật ở mười phương, thì mình có lòng thành niệm như vậy thì các ngài đều nghe tính biết được hết chớ.
Ngay cả ở dưới thế gian này đây, công nghệ khoa học chừ hắn tiên tiến lắm rồi, hắn cài định vị, hắn lắp màn hình khắp nơi vệ tinh hắn theo dõi mình còn được mà, huống chi mấy ông Phật thì ổng phải cao siêu hơn biết bao nhiêu mà kể. So khoa học với mấy ông Phật ở đây là nó khập khiễng lắm, nhưng giờ không có gì tương ứng để so thì phải lấy công nghệ khoa học ra so cho mình dễ hiểu trước.
Mà nếu nói rằng ông Phật Di Đà ổng ở xa quá, chắc ổng không nghe thấy gì đâu, nói thế đúng không?
Đây là một cái điều bí mật, mà bí mật này có đưa cho mấy ông khoa học nghiên cứu thì hắn không ra đâu. Thế giới quanh ta Phật Bồ tát nhiều lắm, ma quỷ cũng nhiều lắm; nghĩ đến mấy ổng là mấy ổng có công nghệ biết hết; biết rồi thì chỉ cần mình tu học cho được đi thì Phật Bồ tát cũng không có tiếc rẻ chi mà cho mình gia nhập đâu.
Tu được, giới hạnh được, hiểu biết được, từ bi hỷ xả được thì Phật Bồ tát hiện ra cho thấy liền, cảnh giới trang nghiêm mấy ổng cũng cho thấy luôn chớ mấy ổng không che dấu. Nhưng để tu học đâu phải chuyện dễ dàng chi, khó lắm. Muốn tu được là phải có lòng thành cái đã, mà lòng thành thì phải thể hiện bằng lòng từ, cái hiểu biết tiếp thu, phải có quyết tâm mạnh mẽ, tu thì đừng có gian dối lòng. Đừng dối thầy lừa bạn, dối trên gạt dưới, gạt ai chứ tự gạt sao mà gạt được mình. Thì cũng vậy thôi, bản thân mình mà hắn còn gạt được thì huống chi Phật với Bồ tát hắn dối gạt luôn là cái chuyện bình thường.
Nói vậy thì nói chớ, chúng sanh chừ hắn nhiễm kinh lắm, tham sân si hắn nhiều hắn dãy đầy ra đó. Phật Bồ tát xưa nay cũng khổ vì hắn nhiều lắm rồi chứ, không ít đâu, cũng lên bờ xuống rộng ba chìm bảy nổi lênh đênh với hắn nhiều rồi.
Nhưng mà không sao?.. Bồ tát Phật họ từ bi lắm, họ không bao giờ có cái ý niệm bỏ rơi mình hết. Nhưng mà mình thì đâu có chịu hiểu, vô minh nghiệp chướng hắn che lấp hết rồi. Nhiều đứa hắn đâu quan tâm chi đâu, gặp Phật Bồ tát hắn đâu có thèm chào, hắn thích sống theo thế gian thôi. Hắn khổ vậy đó mà hắn cũng không hiểu được một cái chút ý nghĩa tu chi hết, có những đứa như vậy.
Vì hắn tham mà?.. Rau củ quả hắn bỏ hóa chất hắn đầu độc khắp nơi chứ hắn có chừa ai, cái sự sanh tồn hắn khốc liệt ghê lắm; hắn có biết đoàn kết thương yêu nhân loại chi đâu, sướng miệng hắn là gà chó heo vịt trâu bò chi hắn cũng băm chém ra mấy trăm khúc; rồi con người với nhau hắn còn bất chấp hậu quả hắn xử nhau đến giọt máu cuối cùng rồi làm cho khô máu mà chết. Hắn thù, hắn ghen ghét, cái lửa sân hận hắn phá nát hết mọi thứ, hắn bất chấp hết tất cả.
Hắn làm tất cả chứ hắn có sướng được đâu?
Cha! Hắn toàn than trời trách đất không thôi chớ, hắn sống trong lo sợ thôi chớ... Sanh lão bệnh tử hắn đâu có chừa cho đứa nào, vô thường hắn đâu có tha cho đứa nào; định mệnh của cuộc đời chân lý xưa nay là như vậy mà. Thôi ta cứ sống nhẹ nhàng đi, cái gì buông bỏ được thì buông bỏ đi; buông cái ác nghiệp đó xuống, buông cái ngu dại xuống đi, được vậy rồi thì đi tìm cái đạo giải thoát mà tu cho rồi. Tu nhiều không được thì tu lần lần vậy.
Tu đây là tu cái chữ nhân trước cái đã, tu nhân chưa được thì làm sao nhận ra cái giá trị của chữ nhẫn; nhẫn đây là nhẫn nại chứ không phải tàn nhẫn, không phải là nhẫn tâm đâu.
Thì nhân từ là duyên lành đầu tiên để mình đến mà gõ cái cửa đạo, cửa đạo có mở hay không thì coi cái lòng mình hắn mở được bao nhiêu cái đã.
Rồi lại thấy sau khi các Đức Phật nhập niết bàn?
Sau khi thấy các Đức Phật nhập niết bàn là thấy cái gì?
Cái thấy này là mấy ổng cũng đang theo dõi chúng sanh đó thôi, cũng âm thầm hóa thân khắp mọi nơi, cũng âm thầm chịu khổ chịu cực đó thôi chứ có chi đâu, lâu lâu mới ở đời thị hiện thân Phật thôi chớ đâu phải lúc nào cũng ở đời được.
Nhập niết bàn rồi là tưởng mấy ổng sướng hả?
Ừ, thì mấy ổng sướng thiệt, bời vì ổng có cái đạo giải thoát rồi mà, ổng khổ đây là ổng khổ tâm ổng lo lắng cho mình thôi. Nhưng mấy ổng là Phật mà, ổng là thiên nhơn chi đạo sư tứ sanh chi từ phụ mà. Ổng là cha của mình mà, cha thì lúc nào mà không thương con lo cho con, cái trách nhiệm nặng nề đó người cha đâu có bao giờ chối bỏ được, cho nên mình mới tôn thờ ổng chớ, không thờ ổng làm chi. Ổng bỏ mình ổng đi rồi thì làm cha làm mẹ chi mà kỳ cục vậy, cha mẹ chi mà bỏ rơi con cái đâu, từ phụ chi mà bỏ rơi chúng sanh đâu.
Ổng lúc nào mà không lo lắng quan tâm tới mình đâu. Ổng phải luôn luôn ra sức điều hành bảo vệ trái đất, giáo hóa cho con người chớ.
Rồi tiếp tục đem xá lợi mà dựng tháp bảy báu: Ở đâu mà có xá lợi. Mình tu được mình giải thoát được thì mình mới có xá lợi chớ. Thì mình là cái tháp bảy báu thôi, mình tu được rồi thì trong người mới có xá lợi chớ.
Ổng đã ban cho mình viên châu báu rồi đó: Cứ lòng thành mà Om Mani Padme hum thì ổng hộ trì cho tu thôi, tu cho tới lúc tìm ra cái viên Mani báu đó nó ở trong vạt áo là cái thân người này như cái áo, tìm trong cái áo đó là có viên ngọc vô giá trong đó. Ổng đơn giản mà, đâu có làm dễ làm khó gì mình đâu, ổng tìm mọi cách mọi phương tiện để giúp mình.
Mà mình tu được hiểu được, ngộ lý thực hiện được thì cũng tức là có xá lợi rồi. Thì chính mình lúc này mới thực sự là cái tháp bảy báu đây, tháp đẹp tới đâu là do sự nỗ lực cố gắng của mình; mình tự trang nghiêm cho mình được rồi thì mới đủ tư cách trang nghiêm cho đời.
Chứ đâu phải ông Phật ổng thích vàng bạc lưu ly xa cừ mã não chơn châu hổ phách rồi chi đâu, đâu phải là ổng Phật ổng thích vật chất, tháp đẹp chi đâu.
Thì tháp bảy báu chính là thân của bồ tát đây, tu được rồi; giúp ích giáo hóa cho chúng sanh được rồi thì là bồ tát đây chứ đâu xa, cúng dường tháp báu như vậy mới có giá trị chớ. Tháp bảy báu cúng dường là cái thân người này, cúng dường thân mạng không có lẫn tiếc gì tức là đem cái thân mạng này ra mà phục vụ cho chúng sanh không ngần ngại; chứ không phải là liều mạng tu rồi chết mất mà không có được cái lợi ích chi cho đời thì đâu phải tháp báu. Tháp báu là phải trang nghiêm cho đời, cúng dường tháp báu là đem cái tinh thần của bồ tát đạo đây mà làm lợi cho nhân loại chúng sanh cũng tức là trang nghiêm mình pháp thân của mình thôi.
Khi ấy, ngài Di-Lặc Bồ-tát nghĩ rằng: 'Hôm nay đức Thế-Tôn hiện thần biến tướng, vì nhơn duyên gì mà có điềm lành này'. Lúc đó, hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Cận-sự-nam, Cận-sự-nữ và các trời, rồng, quỉ, thần v.v… đều nghĩ rằng: 'Tướng thần thông sáng chói của đức Phật hiện đây, nay nên hỏi ai?
Ngài Di Lặc Bồ-tát là ai?.. Là người đại diện cho những người tu hành Phật đạo, trụ trong pháp này mà tu đạo.
Rồi: Hôm nay đức Thế Tôn; hôm nay tức là bây giờ, ngay bây giờ mình ngồi tu mình thấy được Đức Thế Tôn hiện thần biến tướng, thấy được cái cảnh tâm linh diệu mầu, thì chắc chắn phải có cái nhơn duyên gì thì mới có cái điềm lành này đây - mình tự đặt câu hỏi, thì Di Lặc Bồ Tát là người đại diện cho các hàng người tu mới thay mình đặt ra một cái nghi vấn trong cái kinh này.
Thì lúc đó các hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Cận-Sự-Nam, Cận-Sự-Nữ và các trời, rồng, quỷ, thần... Tức là những người tu tập kinh này thôi; các thầy, các sư cô, phật tử nam, phật tử nữ ai chịu phát tâm tu học thọ trì kinh này đều thấy những hiện tướng kỳ lạ. Rồi những người có cái tâm trời, quỷ, thần ở dưới thế gian này - họ còn nhiều cái phiền não không an lành mà chịu tu thì cũng thấy được như thế. Thì tất cả đều nghĩ rằng: 'Tướng thần thông sáng chói của Đức Phật hiện đây, nay nên hỏi ai?
Đó, mình không biết cho nên mình mới hỏi. Ai tu được rồi Phật đều hộ niệm hết, hộ niệm thì hộ niệm một cái giới của cảnh giới nào thôi; mình không hiểu là cái giới này sao nó kỳ lạ, nó hay hay; nhưng mình không biết hỏi ai hết.
Bấy giờ, ngài Di-Lặc Bồ-tát muốn giải quyết chỗ nghi của mình, ngài lại xét tâm niệm của bốn-chúng: Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Cận-sự-nam, Cận-sự-nữ và của cả chúng hội trời rồng quỉ thần v.v.. mà hỏi Văn-Thù Sư-Lợi rằng: 'Vì nhơn duyên gì mà có tướng lành thần thông này, Phật phóng ánh sáng lớn soi khắp một muôn tám nghìn cõi ở phương Ðông, đều thấy cõi nước trang nghiêm của các đức Phật?'
Di Lặc Bồ Tát đây là đại diện cho người tu kinh này thôi, chứ Di Lặc là mình đây. Thì lúc này những người tu thấy cái cảnh giới cảnh tượng như vậy tự họ sanh ra cái nghi, không biết đây là cái điềm gì đây. Thì lúc này mình lại xét tâm niệm của chúng, tức là những người cũng đang cùng tu với mình mà hỏi Văn Thù Sư Lợi thì cứ tạm gọi là hỏi cái ông mà ổng bày cho mình tu trước cái đã chứ biết hỏi ai- những người mà họ tu trước họ cái cái kinh nghiệm hơn mình.
Rồi mình hỏi như vầy nè: Thưa thầy, tại sao con tu tối hôm qua con thấy trên đỉnh đầu con nó có một luồng khí rất là mát mẻ, rồi con thấy cái này, con thấy cái cảnh kia - rồi có khi con nghe tiếng nói trong hư không, con thấy con đọc được một bài kệ kinh rất là hay - ý nghĩa lắm mà giờ con quên hết rồi. Rồi con thấy con đến được một cái cảnh giới không biết là ở đâu đó mà nó đẹp lắm, như phim 3D vậy đó.
Thì đó chính là đều thấy các cõi nước trang nghiêm của các Đức Phật, còn thấy tới đâu, thấy được bao nhiêu đó là tùy theo sức tu của mình.
Do mình chịu tu thì ông Phật ổng dùng lực ổng phóng cái sáng hộ niệm cho mình, soi sáng cho mình; sáng được tới đâu thì chỗ này do sự cố gắng cùa mình.
Rồi đây: Khi đó, ngài Di-Lặc muốn nói lại nghĩa trên, dùng kệ hỏi rằng:
Rồi bây giờ hỏi tại sao ông Di Lặc ổng hỏi ông Văn Thù, không lẽ ổng không tự biết hay sao ông phải đi hỏi. Không lẽ từ lúc ổng tu đạo Bồ tát cho tới lúc này đây ông sắp thành Phật rồi mà ông chưa có nghe Kinh Pháp Hoa này bao giờ à, chưa có thấy hiện tướng này bao giờ à. Thì đây là một cái mật nghĩa.
Vậy Văn Thù này là ai?
Văn là một cái âm thanh của một cái lời lẽ nào đó, Thù là cái thù thắng vi diệu. Thì Văn Thù ở đây cũng có nghĩa là cái âm thanh thù thắng trong tạng thức của hư không, mà hư không vốn thanh tịnh tức là pháp thân của Phật, pháp thân trang nghiêm của Như lai.
Cho nên ông Di Lặc ổng hỏi ông Văn Thù Sư Lợi ở đây cũng chính là hỏi cái bản thể của hư không diệu dụng, mà hư không diệu dụng đó cũng có một cái hiện tướng của pháp giới cũng gọi là ông Văn Thù Sư Lợi. Cái âm thanh thù thắng đó nó chính Sư Lợi, tức là nó đem lại sự lợi lớn.
Tại sao gọi là Sư?
Sư bình thường người ta hiểu có nghĩa là một vị thầy; thầy giáo, cô giáo, thầy tà, thầy ác cũng đều gọi là thầy. Còn bây giờ mình nghe sư là tự nhiên mình hiểu ám chỉ đến một nhà sư nào đó thôi thì đó chỉ là một nghĩa. Bây giờ đã là đại thừa vô lượng nghĩa rồi thì mình phải thấy nhiều nghĩa nữa.
Cho nên nè: Chào sư huynh!
Ủa! Huynh là anh sao lại có chữ sư ở đây nữa. Tức là chữ sư này cũng có cái cho mình học chứ không riêng gì vị thầy sư phụ của mình không thôi. Cho nên đây gọi là sư huynh.
Rồi: Chào sư đệ.
Ủa, đệ sao cũng gọi là sư.
A, tức là người đệ tức là người em, người đi sau mình cũng có thể làm thầy cho mình, cũng có thể đem lại cái lợi cho đường tu đạo của mình, cũng gọi là sư nhưng là sư đệ. Thì chữ sư này nó nằm trước chữ đệ chứ không nằm sau.
Cho nên người tu mình khi sử dụng một ngôn từ của Phật đạo mình phải biết rằng Phật muốn ám chỉ cho mình một điều gì ở cái từ này đây.
À, nó tuy là sư đệ mình. A, nhưng mình phải biết rằng: Pháp tánh bình đẳng, không có phân biệt cao thấp sang hèn hay lớn nhỏ. Ta tuy là sư huynh, nó là sư đệ nhưng giờ ta hiểu ý nghĩa của Phật đạo muốn ám chỉ vô cái lời lẽ này rồi. Không phải vì nó là sư đệ của ta mà ta coi khinh nó, không xem trọng nó, hoặc là nó lớn hơn ta hay nhỏ hơn ta.
Đây, nó cũng là một phần của Văn Thù Sư Lợi đây, sư đệ mình nó cũng có một chữ Sư đây. Ta coi khinh nó chẳng khác nào nhổ nước bọt vào mặt mình, coi khinh cái chữ sư này.
Thì chính mình tìm hiểu đào sâu để hiểu biết tất cả các ngôn ngữ mà chư Phật đã cất công biên soạn thì mình sẽ sáng đạo chứ không bao giờ sai. Sáng đạo rồi thì tự nhiên tất cả đều là bình đẳng không có sai khác; người ta không khác, thầy trò không khác.
Thì tại sao người ta gọi là sư tử?
Thì chữ sư trong sư tử này có nghĩa là chúa tể, tử có nghĩa là con. Sư tử có nghĩa là con vật chúa tể. Chứ không lẽ vô duyên vô cớ người ta đặt cho nó tên là sư tử.
Thì cũng như vậy đó nếu mà luận ra: Lớn thì gọi là sư huynh, nhỏ hơn thì gọi là sư đệ. Thì sư phụ thì phải có sư con, mà sư con không phải là sư tử à, tử là con mà; thế thì tại sao phải gọi là đệ tử chứ không gọi là sư tử; Mà đệ là em rồi chứ đâu phải là con nữa đâu, nhưng mà ở đây là đồng âm khác nghĩa. Giờ nghe sư tử nghe nó kỳ quá cho nên phải chuyển thành đệ tử nghe mới ổn.
Giờ ngẫm kỹ lại đi: không hề khác nghĩa, cái quan trọng mình có nhận diện được bản chất thực sự của nó hay không thôi.
Cho nên bây giờ bắt buộc phải vay mượn âm Hán Việt để có thể giải bày được nghĩa lý đạo lý của tất cả các pháp ngôn từ.
Thì vay mượn âm Hán-Việt ở đây không có nghĩa là đất nước Việt Nam mình bị phụ thuộc vào cái chữ Hán đâu; mà đây gọi là Vô lượng nghĩa xứ. Tức là do sự sắp đặt ngôn ngữ của chư Phật đã tính toán hết rồi.
Ngài Văn-Thù Sư-Lợi!
Ðức Ðạo-Sư cớ chi
Lông trắng giữa chặng mày
Phóng ánh-sáng khắp soi?
Lông trắng giữa chặng mày; tức là ở giữa hư không, giữa trời và đất, giữa ban ngày và ban đêm, giữa không gian và thời gian; giữa hữu hình và vô hình, giữa thế gian và đạo...
Thì mình thấy ông Di Lặc ổng hỏi có một câu có mấy chữ đơn giản thôi nhưng mà cái lý thú trong đó nó thâm sâu lắm; mượn tướng của một câu hỏi để mà trả lời tất cả mọi nghi vấn.
Một câu hỏi thôi đã thấy được cái cảnh giới của Phật thâm sâu như thế nào rồi; đây mới gọi là Di Lặc thưa hỏi. Thưa hỏi ở chỗ này là biết mới thưa hỏi chớ không phải ai cũng thưa hỏi được đâu.
Thì vừa hỏi xong thôi thì khi đó trời mưa hoa mạn đà, cùng hoa mạn thù sa.
Trời mưa hoa Mạn-đà
Cùng hoa Mạn-thù-Sa,
Gió thơm mùi chiên-đàn
Vui đẹp lòng đại chúng.
Trời mưa hoa là mình thấy những cái cảnh giới hộ niệm, mình sanh tâm hoan hỷ vui vẻ. Mình thấy hay quá, thấy thù thắng quá. Gió thơm mùi chiên-đàn là do cái sự chuyên cần tu của mình, là do mình tu một cách đàng hoàng cho nên mới được tỏa cái hương thơm đó nó làm vui đẹp lòng chư Thiên, Bồ tát những người đang hộ trì cho mình; rồi cái hương này nó cũng bay tới đại chúng tức là mọi người xung quanh.
Rồi sao gọi là trời mưa, ai làm cho trời mưa?
Mà mưa có nghĩa là gì, tại sao có mưa?
Thì nội chúng ta đào được chỗ này ra thôi chúng ta cũng thấy được đạo lý giải thoát trong đó ra rồi.
À, trước khi có mưa là ở phía dưới này nó có những dòng sông, nước ao suối hồ khắp nơi nó bốc hơi lên trên trời cao, nó kết tụ thành những đám mây bay trên đó nó mới rơi xuống dưới này nó tưới khắp nơi làm cho cây cối đều được sinh sôi nảy nở.
Thì mình tu cũng vậy; trong từng cái hơi thở cho đến từng tế bào cũng đều có sự sống, trong từng tâm tưởng nó cũng giống như những làn sương, trong từng cái ý này nó cũng giống như làn khói hạt mưa.
Trời mưa đây có nghĩa là mưa pháp, pháp giới đang chuyển động.
Mà pháp này là pháp gì, mà trời là ai, hoa là gì, mà mạn-đà là gì?
Là cái tâm của mình đây, cái tâm của mình cũng là trời; không biết là trời âm u hay trong xanh thôi, không biết là pháp lành hay pháp dữ thôi, không biết là hoa thơm hay hoa thối thôi. Thơm hay thối gì cũng từ tâm ý mình mà ra hết, sáng hay tối gì cũng từ đó mà ra.
Gió thơm mùi chiên đàn
Thì khi tâm tư mình nó nở hoa rồi, thấy được tánh bình đẳng rồi. Mình đối xử với huynh đệ tỉ muội, người lạ người quen cũng đều với một cái tâm bình đẳng nói lời pháp không có phân biệt thì gió thơm mùi chiên - đàn.
Phật ví von sự tu trì thông đạt hiểu biết này nó như mùi hương thơm của gỗ chiên đàn nó bay trong gió vậy. Rồi mình đi tới đâu, ở nơi đâu cũng đều làm vui đẹp lòng đại chúng, cũng đều mở mang cái tâm lượng và thế gian đều đón nhận được thì gọi là vui đẹp lòng đại chúng.
Còn bây giờ: Mình tu gì không biết, tụng Pháp Hoa hay Hoa Nghiêm, Lăng Nghiêm, Mật tông trì chú gì đó không biết nhưng mình không hiểu được cái nghĩa giải thoát. Mình đi tới đâu nói pháp là gây phiền não đau khổ tranh cãi thị phi tới đó thì chưa phải mùi thơm hoa chiên đàn, chỉ là mùi thối thôi; vẫn còn nằm trong phiền não của thế tục.
Cho nên nói ra chỗ này nó đụng chạm nhiều lắm, nói không nói thì thôi, khi nói đụng chạm tới tự ái của mình mà mình không có phát cái lòng ra để đón nhận cái mới cái hay thì muôn đời khổ ải; tu ức kiếp cũng không sáng đạo được.
Vì nhơn duyên như vậy
Cõi đất đều nghiêm tịnh
Mà trong thế giới này
Sáu điệu vang động lên.
Thì cái nhơn duyên như vậy đó, nó làm cho cái tâm mình nghiêm tịnh, nó làm cho cõi lòng phấn khởi mình tu tiếp, thì trong cái thế giới này sáu căn của mình nó như vang động lên mình thay đổi cái con người của mình, mình có một cái tầm nhìn khác, cái tâm lượng của mình nó thay đổi.
Vì nhơn duyên như vậy
Phải thấy được những nhơn duyên như vậy, hiểu được những nhơn duyên như vậy. Mình làm cho cái cõi đất là cái cõi tâm của mình nó nghiêm tịnh tức là trang nghiêm thanh tịnh.
Trang nghiêm thanh tịnh chưa?
Thì trong thế giới này là trong thế giới của tâm thức, sáu điệu đó là sáu căn của mình nó vang động lên chưa?
Nó chưa vang động tức là nó đang nằm im bất tỉnh, sáu căn nó còn đang bị mê man chứ nó chưa có tỉnh táo. Thì bây giờ sáu căn phải làm cho nó vang động lên.
Mà vang động là gì?
Vang là vang lên trời cao, tiếng lòng của mình nó vang lên cao cả, nó vang lên để mình thấy biết phân biệt được trên dưới đúng sai phải trái. Nó bay tới đâu là nó lợi ích tới đó. Từ cái chỗ mà mình nghiêm tịnh được cõi lòng của mình thì cũng chính trong cõi này đây, cõi người chúng ta. Chính trong cõi chúng sanh đây cũng nương nơi mình mà nghe được cái tiếng vang đó.
Bấy giờ bốn bộ chúng
Thảy đều rất vui mừng
Thân cùng ý thơ thới
Ðặng việc chưa từng có.
Rồi như vậy: Ai nấy tu cũng cảm thấy vui mừng hết, thân cùng cái ý của mình nó thơ thới, được những cái việc chưa từng có.
Bốn bộ chúng là ai?
Tỳ kheo, tỳ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di.
Thì: Bấy giờ bốn bộ chúng
Thì chắc chắn người tu là phải nằm trong bốn bộ chúng ở trong này, bốn chúng ai cũng tu hết chứ không riêng gì đi xuất gia cạo đầu mới tu được.
Tu được rồi sáu điệu vang động lên, sáu căn nó sáng tỏ lên thì chắn chắc lúc này là thảy đều rất vui mừng.
Tại sao lại vui mừng?
A, mưa diệu pháp; ôi, lý giải thoát; ôi cảnh giới vi diệu; vui quá, mừng quá.
Thì chính cái vui mừng này mình thấy cái thân cùng cái ý nó thơ thới an lạc.
Chứ bây giờ ngồi tu kinh pháp mà nghĩ rằng:
Ái cha, mỏi cái lưng quá; chán nản mệt nhọc quá, khó chịu quá, tốn thời gian quá; sao lâu quá chưa xong. Thì đây đâu phải là thân cùng ý thơ thới.
Thì bây giờ ngồi tu có mệt mỏi không?
Có chớ.
Ừ, thì có chứ sao không được. Có cái xác phàm này thì phải có mệt mỏi; nhưng trong tu thì cái mệt mỏi nó hướng đến cái pháp vị, cái cảnh giới cảm ứng tâm linh đều có. Thì chính đó là làm cho người tu xóa tan mọi cái mệt mỏi, rồi khi gặt hái được cái hoa trái của sự hành trì thì nhất định sẽ thấy được việc chưa từng có.
Khi sáu căn của mình nó vang động lên, cái tâm tư của mình nó thánh thiện giải thoát, cái trí mình nó thông đạt, cái cảnh giới tâm linh nó nhiệm mầu thì tất nhiên là phải: Thảy đều rất vui mừng.
Thì trong bốn chúng đây, ai tu vào rồi, đạt được chút phần nào rồi thì thân cùng ý thơ thới, được việc chưa từng có.
Việc chưa từng có gì?
Việc lợi cho mình rồi cho người, một trạng thái lạ lùng; được một cái quả vị, hương vị.
Sao gọi là quả?
À, cái quả này một là cái quà, một sự thọ nhận của tâm linh cảm ứng, hai là cái quạ. Và cái quà cái quạ này người tu đều phải vượt qua; cho nên trong chữ quả này rất gần với chữ qua; không qua được, ma chướng đến mà không qua được thì chắc chắn gặp chữ quạ. Qua được rồi, tinh tấn hiểu biết thì gặp chữ quà, thì chữ quà quả lúc này đây cũng đồng một nghĩa.
Thì tu làm sao trong cái quạ vẫn phải tu, vẫn phải học hỏi để hiểu biết thì thoát ra khỏi cái quạ đó. Cái quạ ngu dốt, cái quạ dại dột thì phải nghiên cứu tìm hiểu để tìm cho ra cái ngu dốt đó thì không còn ngu dốt nữa, không còn dại dột nữa.
Cho nên trong cảnh đời có một con gọi là con quạ, con quạ rất là đen: Con quạ nó kêu quạ! quạ! quạ. Nghe thấy như vậy rồi cho nên tâm lý người Việt Nam cứ nghe thấy tiếng con quạ nó đậu trước nhà, nóc nhà, cành cây trước nhà nó kêu là cứ phải ra xua đuổi nó.
Bởi vì sao?
Vì mê tín hay là vì tâm lý, hay bởi vì sợ bị gặp quạ?
Đó, trong cảnh đời vẫn biến hiện ra mọi hình ảnh để mình có cái phương tiện để mình tìm hiểu cái đạo lý trong đó.
Giờ hỏi tại sao mình mê tín?
À, vì cái cảm giác; cái lo nghĩ, cái tâm lý. Vì cái cảm giác bất an, hoặc là vì nghe đâu đây cái kinh nghiệm chi đó của người xưa họ cứ lưu truyền truyền như thế chăng; rồi điều đó có đúng hay không cũng đâu có biết.
Ánh sáng giữa chặng mày
Soi suốt thẳng phương Ðông
Một muôn tám nghìn cõi
Ðều ánh như sắc vàng.
Khi mà được việc chưa từng có rồi, thì cái ánh sáng giữa chặng mày là ở đâu, ánh sáng là ánh sáng gì?
Thì cái ánh này cũng tượng trưng cho cái ý; cái ý nó ánh lên, nó khởi lên nó tỏ ra thì thấy nó sáng. Thì bây giờ mình tu cái ý của mình đã sáng chưa, mà trước khi sáng là phải ánh lên; cái ý khởi lên rồi dùng cái trí lực để làm cho nó tỏ sáng thì đầy đủ nghĩa của từ ánh sáng.
Thì cái ánh sáng này nó ở giữa chặng mày; ở giữa chặng mày để làm cái gì?
Để quan sát tất cả các chặng đường, quan sát tất cả những chúng sanh xung quanh mình.
Thì khi đã quan sát thấy biết hết rồi thì mới soi suốt thẳng phương Đông. Mà phương Đông là ở đâu?.. Là ở nơi đông người.
Giờ hỏi:
Ủa, sao Phật không soi thẳng ở Tây, Nam hay Bắc mà cứ phải soi thẳng phương Đông. Phương Đông có gì đặc biệt sao ngài lại soi thẳng vào đó vậy.
Thì đây là đang chơi chữ; thì chính cái chơi chữ này mới gọi là vô lượng nghĩa; mà không biết chơi chữ thì đâu thể nào gọi là Vô Lượng Nghĩa Xứ pháp Phật sở hộ niệm được.
Thì ở phương Đông này có tới một muôn tám nghìn cõi, thì thực ra chỉ có một cõi là cõi lòng mình thôi, nhưng nó có đến muôn tám nghìn cõi. Thì tức là có muôn ngàn chúng sanh ở phía xung quanh; mình ở giữa xung quanh có tám phía, thì mình chỉ giao lưu được với tám phía này thôi; vẫn còn lại hai phương nữa.
Phía dưới và phía trên; phía dưới thì là ở dưới lòng đất, mà dưới lòng đất là những người đã chết rồi, không còn trụ ở thế giới vật chất này nữa.
Còn phía trên thì khỏi nói, phía trên tức là bằng mình hoặc cao hơn mình thì đâu cần soi, phải soi được tám phía trước đã. Mà kỳ thực có trên dưới gì rồi thì họ cũng từ tám phía đến hết; cho nên nói Phật Di Đà là ở phương Tây mà, thì theo nghĩa thông thường thì ổng phải ở phía trên chứ không lẽ ở ngang hoặc ở dưới.
Rồi bây giờ người đời chúng sanh từ tám phương bốn hướng tới xin tu cầu đạo mình ngay trên thế gian này, mà mình chưa có soi được cho nội tâm mình thấy biết được con đường chánh trực thì mình lấy gì soi được cho họ; mình nói tà nói chánh lẫn lộn làm cho họ cũng mơ mơ màng màng như vậy có gọi là soi không. Thì chỗ này là phải tu học kiểm chứng tâm pháp chứ không phải là nói chuyện mơ hồ được.
Từ địa ngục A-Tỳ
Trên đến trời hữu đảnh
Trong các thế giới đó
Cả sáu đạo chúng sanh
Sống chết của kia đến
Nghiệp duyên lành cùng dữ
Thọ báo có tốt xấu
Tại đây đều thấy rõ.
Từ cái chỗ soi suốt thẳng phương Đông này đây là phải thấy được tất cả các cảnh giới; dưới thì từ địa ngục A-Tỳ, trên thì đến trời hữu đảnh.
Dưới địa ngục A-Tỳ là đã thấy được ngục A-Tỳ chưa, chưa thấy được địa ngục A-Tỳ sao gọi là soi. Thì bây giờ phải thấy được cái chỗ đọa lạc của chúng sanh, phải thấy ngay thế gian này trước; thấy được cái nghiệp lực của chúng sanh nó đang như thế nào.
Rồi trên thì đến trời Hữu Đảnh tức là thấy được tất cả các phương pháp của các hàng tu đạo, tất cả các cảnh giới của các hàng tu đạo trên đến trời hữu đảnh.
Mà hữu đảnh là gì: Hữu là có, đảnh là cái đảnh trí tuệ; trên đảnh đầu của mình cũng gọi là đảnh. Tức là phải thấy được cái trí tuệ của tất cả các hàng tu.
Rồi: trong các thế giới đó.
Tức là trong các thế giới của mỗi một con người nó đều có một cái cảnh giới. Cái cảnh giới này nó nằm trong cả sáu đạo chúng sanh, sống chết của kia đến.
Sống chết của kia; tức là ai có chết đi rồi nhưng cái thần thức cái nghiệp lực của anh nó vẫn còn đó, hoặc là các pháp khởi diệt nó đều có nghiệp duyên lành cùng dữ, thọ báo có tốt xấu, tại đây đều thấy rõ.
Thì tại đây là đang nói cho mình thấy, Phật muốn cho mình tu để mình đủ thần lực thấy biết tất cả các cảnh giới đó mình trụ cho vững hơn chứ không phải là ý gì khác.
Lại thấy các đức Phật
Đấng Thánh-Chúa sư-tử
Diễn nói các kinh điển
Nhiệm mầu bậc thứ nhất.
Kinh này do ai soạn ra, hội chúng nào?
Dạ, Pháp Hoa Hội Thượng Phật Bồ tát.
Thì bây giờ mình ngồi tu trì đây là tu trì kinh của ai?
Khi đã tin hiểu thấy biết rõ ràng thì kinh này là kinh của chư Phật biên soạn ra chứ không lẽ do chúng sanh hư cấu ra. Nhưng người chưa tu chưa tin hiểu nổi thì họ nghĩ gì?
Có ai thấy các Đức Phật, Đấng thánh Chúa Sư Tử nào diễn nói các kinh điển bao giờ đâu; chỉ nghe kinh sách kể lại rồi tin thôi.
Thì bây giờ tu làm sao để thấy được rằng: chư Phật đang diễn nói kinh điển nhiệm mầu bậc thứ nhất cho mình nghe đây.
Mà kinh điển là gì?
Muốn nghe kinh là phải có tấm lòng cung kính trước, cung kính pháp trước. Không có tấm lòng cung kính pháp cầu pháp thì không bao giờ nghe được kinh điển cả.
Điển là gì?
Điển này là điển quang thanh tịnh của chư Phật, hay là còn gọi là luồng tịnh quang. Điển quang này nó cũng giống như một luồng điện vậy đó, một nguồn năng lượng trong một cảnh giới nào đó cũng gọi là điển.
Kinh là gì, người Việt Nam mình gọi là dân tộc gì?
Dân tộc Kinh.
Thì xưa nay người ta gọi dân tộc là Kinh này đây là một sự trùng hợp ngẫu nhiên hay một sự sắp đặt, có bàn tay vô hình nào can thiệp vào cái chữ dân tộc Kinh này không?
Thì cái này chỉ có điển mới trả lời được, chỉ có tu được mới thấy được câu trả lời.
Thì cái chữ kinh điển này rất nhiệm mầu, rất đẳng cấp, nhiệm mầu bậc thứ nhất.
Tiếng của Ngài thanh-tịnh
Giọng nói ra êm dịu
Dạy bảo các Bồ-Tát
Vô-số ức muôn người
Thì cái tiếng kinh điển này là cái tiếng của ngài, tiếng của Đấng Thánh Chúa Sư Tử.
Thì bây giờ mình có nghe được cái tiếng của ngài chưa, có thấy nghe hiểu được những cái lời lẽ trong kinh này có phải là cái lời lẽ thanh tịnh chưa.
Thì cái giọng nói trong Kinh Pháp Hoa này đây nó phát ra, nói ra những lời lẽ giải thoát nghe rất là êm dịu. Thì chính mình nghe được âm thanh này dạy bảo cho mình cái đạo của Bồ tát; dìu dắt cho vô số ức muôn người nữa cũng cùng đồng hành với mình.
Thì kinh đây cũng có vô số ức muôn người đang đọc tụng thọ trì thiệt mà. Nhưng làm sao đó mình phải thấy được cái lời lẽ nhắn nhủ trong này đây để mà tu sao cho được để về với Phật đạo.
Tiếng Phạm-âm thâm diệu
Khiến người đều ưa nghe.
Tiếng Phạm âm là cái tiếng của Phạm Thiên, âm thanh của cõi trời; cái âm thanh này nó rất là thâm sâu và vi diệu.
Thì âm thanh của đạo nó cũng rất là thâm sâu vi diệu như vậy; muốn nghe được cái tiếng Phạm âm này là phải nghe được cái âm thanh của pháp giới tánh. Âm thanh tiếng Phạm đây không có nghĩa là mình phải nghe bằng một cái thứ tiếng gì đó xa lạ ngoài cái tiếng mẹ đẻ của mình; thì chỗ này rất là sâu.
Khiến người đều ưa nghe
Bây giờ mình đang khổ, vỡ nợ hoặc đang gặp nạn. Mình nghe ai đó rất là tài giỏi, thần lực quyền lực rất lớn, mình đang cần người có thể giúp được cho mình thoát được tất cả các nạn này, rồi mình tìm đến người đó.
Thì người này mới bày vẽ cho mình cái con đường để thoát nạn khổ đó, rồi còn có thể tiến thân xa hơn nữa. Thì nó khiến cho mình ưa nghe.
Thì cũng như vậy; chính vì cái lợi ích tu đạo thật sự nó làm cho người có cái lòng cầu đạo khiến cho họ đều ưa nghe.
Chứ bây giờ mình ngồi đọc kinh Phật đây thật sự mà nói có mấy người hiểu được cái cảnh giới Phật Bồ tát nó như thế nào đâu. Họ nghe tới đọc kinh là họ sợ, họ thấy tốn thời gian, họ thấy vô nghĩa thì lấy gì họ tu.
Các Phật ở cõi mình
Mà giảng nói chánh pháp
Các Phật ở cõi mình là cõi nào?
Ở đây nói cõi mình chứ đâu nói cõi nào khác ngoài cõi mình đâu.
Các Phật ở cõi mình thì mình đã thấy được mình chưa?
Thấy được mình tức là thấy được các Phật cũng ở ngay trong tâm mình thôi chứ đâu phải ở đâu xa; thì cõi mình đây cũng rất là rộng.
Thì tâm mình mình có đo lường được không?
Ngay cả tâm mình mà mình còn không đo lường được thì làm sao mình có thể đo lường được tâm chúng sanh, tâm Phật.
Thì bây giờ ngay trong cõi lòng mình đây cũng có phật tánh, mình phải khơi ra cái trí phật này; tự luận bày suy tư nơi tất cả các pháp thế gian để mà tìm về với các cõi Phật này trong tự tánh.
Thì tự mình phải biết giảng nói chánh pháp; mà muốn giải nói chánh pháp thì phải nương vào kinh điển học tập tu, rồi thực hành, rồi kiểm chứng, rồi cảm nhận cảm ứng thì đó tự mình nương về kinh pháp mình bày ra mà giảng nói kinh pháp.
Dùng nhiều món nhân duyên
Cùng vô lượng tỉ dụ
Thì trong thế gian này, trong cuộc sống của mình nó có nhiều món nhân duyên mình tiếp xúc hằng ngày; mình va chạm trong xã hội, rồi cũng từ đó nhờ mình có tu cầu học đạo mình mới ngộ ra được mình biết phải sống ra làm sao; đối nhân xử thế như thế nào.
Từ chỗ có tu có thành tựu mình mới tạo ra được nhiều cái nhân duyên lành mạnh.
Rồi mình mới đem cái nhân duyên mà mình học được, mình biết được nhiều cái phương tiện thí dụ trong cuộc sống nó đang bày ra trước mắt; có vô lượng hoàn cảnh để mình đối diện. Trong mỗi một hoàn cảnh dù dễ dàng hay khắc nghiệt đều là cái để mình soi rõ được cái tâm pháp của mình, để kiểm chứng các căn của mình có thật sự thanh tịnh trang nghiêm hay chưa, có linh động nhạy bén và đạt hay chưa.
Để soi rõ Phật Pháp
Mà khai ngộ chúng sanh.
Thì tất cả đây, mọi thứ nhân duyên, cùng mọi tỉ dụ đều là để soi rõ Phật pháp.
Mà Phật pháp đây là gì?
Để soi rõ cái tâm tánh của mình, tìm ra cái phương pháp, thấy biết được những phương pháp, ngộ ra được những phương pháp để hàng phục các ma chướng.
Thì chính chỗ này từ cái tâm phàm mới được khai ngộ khai sáng; khai ngộ được rồi thì đầy đủ thần lực trí lực, thì chúng sanh quanh mình cũng sẽ có được một cái chỗ về nương, cái duyên lành với chúng sanh cũng từ đó mới thật sự phát sanh thì tha hồ giảng nói chánh pháp.
Nếu có người bị khổ
Nhàm lìa già, bệnh, chết,
Phật vì nói Niết-bàn
Để dứt các ngằn khổ
Nếu có người bị khổ, nhàm lìa già bệnh chết là gì?
Đây là những người bệnh nặng sắp chết, hoặc những người quá già rồi biết mình không có sống lâu nữa, tuổi xế chiều rồi, gần chết đến nơi rồi.
Thì Phật vì nói Niết Bàn
- Ở phương Tây có thế giới tên là Tây Phương cực lạc quốc của Phật A Di Đà với 48 lời nguyện. Có hồ bảy báu, nước tám công đức, cây bảy báu thẳng hàng, đất bằng vàng ròng; lan can bao quanh, bảy thứ báu hiệp thành, lưu ly, xà cừ, mã não, san hô, hổ phách, chơn châu như ý, mai khôi hiệp lại mà thành...
A, có cái cảnh Tây phương này đẹp ghê. Ở đó sướng quá, muốn ăn thì tự biến hóa ra, sáng sớm thì đi cúng dường các Phật ở khắp các phương, tuổi thọ thì kéo dài vô lượng, cõi nước thì trang nghiêm thanh tịnh như thế.
Sướng quá, giờ chỉ cần niệm Phật cho nhất tâm bất loạn, tâm ý không tán loạn nữa. Một lòng nhất tâm nhất ý cầu Phật vãng sanh thì chắn chắn được sanh về đó.
Bây giờ già, bệnh khổ rồi đường nào cũng chết; lo sợ quá, thấy người ta đem tới cho cuốn Kinh A Di Đà đọc vô giờ thấy kinh nói cảnh Tây phương xinh đẹp tươi tắn thế này mừng quá, nghĩ tới cảnh mà được về chỗ đó ở thì thiệt là sướng, thôi lo phát nguyện tu nhanh không chết mất thì đâu còn cơ hội.
Thì chính câu Di Đà này trước mắt là làm an lòng họ, họ không còn bất an lo lắng nữa, tạo cho họ một niềm tin, mở một con đường sáng cho họ để họ có định hướng họ trụ nơi pháp đó.
Nếu là người có phước
Đã từng cúng dường Phật
Chí cầu pháp thù thắng
Vì nói hạnh Duyên-giác
Thì nếu mà có những người có phước; mà phước đây là gì?
Phước báu, phước trí, phước duyên.
Đã từng cúng dường Phật tức là người này nhờ có cái trí và chịu tu, cũng muốn tu cho thành Phật thì thôi.
Thì Phật mới nói cho cái hạnh Duyên giác tức là những người tu thiền, họ ngộ được thế gian vô thường nên họ đi cầu tìm cái giác ngộ. Họ cầu pháp thù thắng mà, họ cũng có cái lòng tu mãnh liệt, có cái quyết tâm, có sức tinh tấn; nhưng mà họ ưa tu nơi chốn thiền môn thanh tịnh, nơi lan nhã, hoặc nơi núi rừng am tranh chứ không có thích tu chung với đời. Thì pháp họ là tu thiền, ngồi thiền, tĩnh tâm trừ loạn động; thu nhiếp các căn.
Thì cái hạnh duyên giác là như vậy; họ đi tìm cái huệ Phật trong mười hai cái nhơn duyên, tĩnh lặng trở về không, diệt hết các duyên để tạo ra cảnh giới định của bậc Duyên giác.
Thì những bậc này nhiều người trong đó họ không có thích hành Bồ tát đạo chi hết, họ nghĩ tu giải thoát rồi xả bỏ báo thân là nhập vào cảnh Niết Bàn chứ không có trở lại thế gian nữa; họ tu tông chỉ là kiến tánh thành Phật chứ không phải hành Phật đạo, Bồ tát thừa, Kim cang thừa, Như lai thừa; họ không biết.
Nếu lại có Phật tử
Tu tập các công hạnh
Để cầu huệ vô thượng
Phật vì nói tịnh đạo.
Nếu lại có phật tử, tức là những người nào họ phát triển được cái giống Phật, họ thích tu tập công hạnh như là sáu pháp ba la mật, họ phát cái lòng bồ tát đạo cầu tuệ vô thượng tức là cầu cái trí tuệ ngay nơi thế gian này để làm lợi lạc cho đời thì Phật lại bày cho họ một cách tu hành để thanh tịnh cái ý của họ; để họ trụ vững được cái tâm ý của mình mà không có bị lạc đường, họ thích làm việc công chúng; thì cũng nói tại gia bồ tát giới, xuất gia bồ tát giới.
Ví dụ: Anh muốn học bố thí, thì Phật nói bố thí có ba thí:
Tài thí, pháp thí, vô úy thí.
A, để cầu được cái đạo thượng thì mình phải vô úy thí; tức là mình phải loại bỏ được tất cả những phiền não vô minh, phát được thần lực trí huệ sáng, rồi biết vận dụng dùng tất cả các phương pháp cách thức để dìu dắt chúng sanh mà không có khởi tâm lười mỏi, không có thối chuyển; cái tâm lượng nó rộng sâu, họ tu tập các công hạnh thì Phật vì nói tịnh đạo.
Ngài Văn-Thù Sư-Lợi!
Tôi ở tại nơi đây
Thấy nghe dường ấy đó
Và nghìn ức việc khác
Thấy rất nhiều như thế
Nay sẽ lược nói ra:
Thì bây giờ mình tu là thấy nghe được tất cả các âm thanh hình tướng nơi thế gian này, có muôn nghìn ức việc khác; thấy rất nhiều.
Từ trong phòng ra tới đầu ngõ, từ đầu xóm đến cuối thôn, từ miền bắc ngó qua tới miền nam, từ Campuchia ngó Lào, Thái Lan; rồi dòm vô tới Trung Quốc, Tây Tạng, Hàn Quốc, Nhật Bản thì đều có muôn ngàn việc như thế.
Thấy trăm ngàn việc, nhưng mà nói ra thì kinh sách nào chứa cho nổi; nó nhiều việc quá, cho nên ở đây nay chỉ lược nói ra; nói sơ lược qua thôi.
Tôi thấy ở cõi kia
Có hằng sa Bồ-Tát
Dùng các món nhân duyên
Mà cầu chứng Phật đạo.
Tôi thấy ở cõi kia là cõi nào?
Mình đang sống trong thế giới này thì mình từ đâu đến, trước khi chưa đi đầu thai thì mình ở đâu, rồi tất mọi chúng sanh trước khi đến cõi này thì ở đâu?
- Ở đâu tôi đâu có biết.
Nhưng mà tu rồi thì phải biết chớ, có không biết nữa thì phải tu nghiên cứu để cho biết thì mới gọi là tu; tu mà cái này không biết thì tu công cốc à. Thì phải biết rồi thì mới dùng các món nhơn duyên được, dùng được các món nhơn duyên thì mới cầu chứng được Phật đạo.
Hoặc có vị bố-thí
Vàng, bạc, ngọc, san-hô,
Chơn châu, ngọc như-ý,
Ngọc xa-cừ mã-não,
Kim-cương các trân-bửu
Cùng tôi tớ, xe cộ
Hoặc có vị bố thí là bố thí cho ai, từ đâu ông có của cải mà ông bố thí?
Nếu ông là Bồ tát ông có phép ông biến ra hóa ra vàng bạc dễ dàng quá thì bố thí như vậy có ý nghĩa gì không.
Bố thí vàng là bố thí cái gì?
Bố thí cái hào nhoáng của thế gian; người thế gian người ta ăn mặc điệu đà, son tô phấn trét, trang sức đeo đầy mình. Thì mình đạo rồi thì chỉ cần ăn mặc đơn giản thôi, có tiền có vàng thì để xây chùa làm tượng, tả kinh dựng tháp cứu đói cứu nghèo đó cũng là bố thí cúng dường.
Bố thí bạc?
Bố thí bạc là từ bỏ đi cái nhạt nhẽo lạnh lùng của con người, con người với nhau mà đối xử với nhau lạnh nhạt thì không phải là Bồ tát đạo.
Thì làm sao cái chữ bạc này cũng đều phải thấy cái Bồ tát đạo trong đó.
Vì cái chữ bạc này mà chúng sanh đi thọ khổ, cũng vì chữ bạc này mà chúng sanh hỗ tương tàn hại lẫn nhau; đời nó bạc. Giờ làm sao đó bố thí cái bạc này đi thì nó ra ngọc, thì từ chỗ ngọc này mới có những lời ngọc ngà lời hay ý đẹp; rồi biết san sẻ rồi cùng hô gọi nhau để làm những cái việc chơn chánh.
Hô là xưng hô, hô hào, hô gọi cũng đều là hô. Thì hô làm sao đó thì hô phải hô bằng cái lời chơn châu, chơn chánh. Thì san hô này mới ra ngọc như ý; như cái ý muốn của mình mới thành ngọc xa cừ, tức là không cừ nhau nữa, không cự nhau nữa. Mà không cừ nhau cự nhau nữa thì phiền não tự chạy xa. Thì tâm mình kiên cố chắc bền vững sáng chói như kim cương thì mới gọi là trân bửu, làm gì đi đâu mới được trân quý trân trọng.
Thì chính chỗ này mình không có còn tôi tớ xe cộ cho ai cả; cho nên là bố thí luôn cả tôi tớ xe cộ, xe cộ này là cái xe chở phiền não nguy hiểm đây.
Chớ bây giờ hỏi: Bồ tát rồi mà còn cần tôi tớ xe cộ làm gì nữa, thì đây là đang ám chỉ cái tâm tôi tớ của mình.
Kiệu, cán chưng châu báu
Vui vẻ đem bố thí
Hồi hướng về phật đạo
Nguyện đặng chứng thừa ấy
Bậc nhất của ba cõi
Các Phật hằng khen ngợi.
Kiệu, cán tức là cái kiệu mà nó có cái cán nó bắt ngang qua để gánh lên những cái châu báu; thì cái châu báu này là cái tâm pháp lành mạnh mình chưng bày ra cho mọi người thấy biết. Rồi tất cả những gì mình thông đạt chứng biết được mình cũng vui vẻ đem ra chia sẻ lại mọi người hồi hướng về Phật đạo.
Nguyện được chứng thừa ấy
Thừa ấy là thừa nào?
Hồi hướng về Phật đạo, thì thừa ấy chính là Phật thừa. Phật thừa này mới là bậc nhất của ba cõi, các Phật hằng khen ngợi.
Tức là mình phải sống trong thế gian, chịu nhiều áp lực của thế gian mà vẫn trụ được cái hạnh giải thoát. Thì đó mới có cái để rạng ngời hơn người ta, mà hơn người ta cái là mình không trụ nơi lòng phàm tham sân si mình làm lợi cho đời thì mới được gọi là khen ngợi.
Tại sao lại khen ngợi?
Bởi vì bố thí đây tức cho, như người bố cho người con thì không có tính toán, không có mưu toan; cho đi cái sự hiểu biết chơn chánh, truyền trao chưng bày cái chơn lý giải thoát lợi lạc cho đời. Thì chính cái việc mình làm lợi lạc thật sự thì mới gọi là các Phật hằng ngợi khen, ngợi tức là dùng lời lẽ giọng tiếng để tôn vinh.
Người con mà khen người bố thì người bố có mừng không?
Biết khen ta như vậy thì phải theo ta mà làm, khen ta không thôi mà bản chất phàm phu vẫn còn nguyên đó thì chưa phải là khen ngợi ta; khen rồi để đó thì khen không có ý nghĩa; cho nên ngợi này là mình phải làm theo hoặc bằng, hoặc không bằng, hoặc hơn thì ít nhất cũng làm được chút chi đó mới gọi là khen ngợi.
Các Phật khen ngợi mình có nghe thấy không?
Đâu phải vì cái lời khen hay chê mình mới tu đạo đâu, thì các Phật đây mình phải hiểu rằng các Phật phải là cái tánh hiểu biết sáng suốt nó được ngợi vang; mà cái tánh sáng suốt mình đã có rồi thì các Phật khen hay chúng sanh khen cũng chỉ là cái nghĩa thế gian, mà nghĩa thế gian hay nghĩa giải thoát cũng không có khác; nghĩa giải thoát cũng từ nghĩa thế gian mà ra.
Thì bây giờ có ai khen hay không thì không biết, nhưng phải biết rằng bậc nhất của ba cõi thì bây giờ mình phải làm chủ được thân khẩu ý của mình, trang nghiêm thanh tịnh được ba nghiệp của mình làm cho nó được sáng ngời rạng ngời nơi thế gian.
Khi đã trang nghiêm được rồi thì khen biết khen, chê biết chê để mà trụ cho được Phật đạo; không có bị giao động bởi bất cứ hoàn cảnh nào rồi đắm chìm trong đó thì đúng nghĩa bố thí của Bồ tát đạo.
Hoặc có vị Bồ-Tát
Xe tứ mã xe báu
Bao lơn che tàn đẹp
Trau tria dùng bố thí.
Hoặc có vị Bồ tát là gì?
Cái hương vị của Bồ tát, cái quả vị của Bồ tát, cái ngôi vị mùi vị của Bồ tát.
Thì mình tu hành Phật đạo thì phải thấy được cái vị của Bồ tát này trước; thì Bồ tát thì phải có cái lòng vị tha, phải biết vì chúng sanh; tâm lượng phải hùng vĩ, vĩ đại; rồi Bồ tát phải biết vi hành đi hàng phục các ma chướng, cái hành vi của mình phải biết nó đi về đâu được gì; rồi đầu óc cũng phải có vĩ mô suy tư tính toán rõ ràng thì mới độ được chúng sanh.
Xe tứ mã xe báu
Xe tứ mã là mô tả cái xe mà có bốn con ngựa, mà những con ngựa này ý nói lên cái sức tinh tấn, ý chí của mình phải đi khắp mọi nơi để mà giải mã cái tâm ý như là một cỗ xe báu; có cái sức tinh tấn lòng ý chí quyết tâm này rồi thì mình mới thấy bốn con ngựa này tức là mình phải bôn ba bốn biển để khám phá giải mã ra cái xe báu tâm ý này.
Xe báu tức là cái xe này đây cũng giống như là cái xác thân của con người mình đây, nó cũng giống như một cái xe báu vậy, nó đang chạy mỗi ngày. Đó cũng là cái phương tiện để thị hiện ra nơi thế gian mà tu đạo.
Rồi: bao lơn che tàn đẹp
Bao lơn ở đây tức giống như là cái lan can nó bao quanh hết lại; nó bao quanh một cái cây, mà cái cây này nó có một cái tán, hay gọi là cái tàn cây; cái tàn cây này nó rất là đẹp.
Tại sao nó đẹp, mà tàn là gì?
Cái kho tàng, cái kho tàng trong tạng thức của mình; nó tàng chứa ở trong đó, tất cả các pháp nó cũng đều tàng ẩn trong đó.
Bây giờ cái kho tàng này nó đang bị che, thì bây giờ tu là phải thấy được cái kho tàng đẹp này; nếu không thấy được, không mở lối thì chính cái tàng này nó đang tàn lụi.
Trau tria dùng bố thí thì trong cái kho tàng này, bây giờ mình phải trau truốt trau dồi cái thiện căn cho nó tròn trịa viên mãn hơn, để mình mở ra cái kho tàng lớn đẹp đó. Thì chữ dùng này là phải biết dùng cái thiện căn để bố thí thì của báu vô lượng, trí huệ vô lượng như vậy dùng ban bố lại cho chúng sanh thì được hai nghĩa bố thí.
Chứ bây giờ tiếng Việt mà nghe qua chữ trau tria là dường như không hiểu gì; không hiểu gì thì làm sao thấy nó được. Không thấy nó được làm sao lấy nó được, không lấy được thì không có cái để bố thí.
Người thế gian cũng vậy. Bây giờ nhân dân họ ra đời đi làm ăn, đi buôn bán kinh doanh.
Một là đi làm thuê, bỏ sức ra làm công ăn lương. Thì tiền này lấy ở đâu?
Lấy ở người chủ thuê.
Rồi người chủ thuê mình làm, thì người chủ lấy cái gì của mình?
Lấy công sức của mình bỏ ra, thuê mình làm.
Thuê mình làm thì được việc cho họ thì họ mới thuê, họ có mối họ biết tìm đối tác họ hợp tác để tạo ra một thị trường; rồi ai cần công việc mà phù hợp được họ sẽ thuê mình làm, rồi họ cũng được quyền lợi ăn trên một phần công sức của mình; mà làm ăn thất bại thì họ phải gánh trước.
Bởi vì họ cũng bỏ công ra tính toán, nếu cao hơn mình một cái đầu họ biết tận dụng người cần đến họ là để nuôi sống lẫn nhau.
Thì tu giải thoát rồi cũng vậy; cái vốn của mình là sự trau dồi hiểu biết thấy được lợi lạc chân chính, con đường chân chính.
Giờ ai cần học đạo tu tâm mình cũng có khả năng trau dồi cho họ thành một vị đạo đức có trí tuệ. Rồi những người này lấy cái vốn đạo đó, đi khắp nơi để hoằng hóa người cần tu hoặc thích đạo, thì tất cả thuận theo duyên cảnh mà sanh ra các pháp.
Thì đây thực sự là chỗ bố thí của Bồ tát.
Cũng giống như Đức Phật Thích Ca sau khi nhập diệt ông đã để lại mấy ngàn vị La Hán; từ đó đến nay qua bao nhiêu đời trong mỗi thời đại cũng đều thọ nhận được sức bố thí thần lực của ổng vẫn còn chảy mãi.
Lại thấy có Bồ-Tát
Bố thí cả vợ con
Thân thịt cùng tay chân
Để cầu vô thượng đạo.
Lại thấy các Bồ tát, bố thí cả vợ con?
Nếu giờ mình hiểu theo nghĩa thông thường, thì nếu là một vị Bồ tát thứ nhất nếu anh có vợ có con; nếu giờ anh muốn bỏ đi tu hay làm chi đó kệ anh, giờ anh tu đạo rồi anh còn muốn đem người ta ra anh bố thí cho người khác thì như vậy có ai chấp nhận được không?
Rồi anh bố thí vợ con là bố thí cho ai, anh có quyền gì anh bố thí vợ con, nhân quyền ở đâu; thì đây Phật nói chỗ này là một ám chỉ.
Vậy vợ anh là ai?
Vợ tức là sự tham ái của anh nó vốn có sẵn rồi, tiềm ẩn trong đó; nó đang ngồi ngay trong vòng tay của anh, nó ăn nó ngủ anh cũng đem nó theo; mà con tức là cái ý tham ái của ảnh nó khởi lên. Từ cái chỗ vợ con nó nổi lên này thì thân thịt và tay chân của anh nó sẽ đi đến cái chỗ chìm đắm sa đọa, nó dẫn anh đi phạm giới, nó dẫn anh đi thọ ái nhiễm rồi anh dính chặt vô đó không có lối thoát.
Thì bây giờ anh muốn tu, thân tâm phải trang nhiêm thanh tịnh, thì anh phải bố thí cái người vợ và đứa con này đi. Anh không có nuôi người vợ với đứa con này nữa; thì chính chỗ anh nuôi hai mẹ con nhà này thì anh cũng thực sự sẽ đi đến cái chỗ vợ con bên ngoài thực sự chứ không sai, thì anh phải còng lưng ra mà nuôi họ chứ ở đó mà bố thí.
Mà anh tu nửa đời nửa đạo mà không có dứt khoát, anh bắt cặp người này bắt cặp người kia mà thân anh còn ở trong cửa đạo thì càng không ra gì.
Không lẽ Phật khuyên người lấy vợ rồi con chán chê rồi giờ không thích nữa đem cho người khác à, vợ con họ rồi người đời ai mà chấp nhận cho nỗi, Phật đâu mà xúi bậy bạ vậy. Thì cái chỗ nó cao ở cái chỗ là mình phải luận ra được cái ý của kinh Phật nói thì mới chính xác được.
Khi chính xác được rồi thì mới gọi là để cầu vô thượng đạo.
Vô thượng đạo tức là cái đạo bình thường mình phải hiểu, cái vợ con ngay trong cái tấm thân này của mình đây ngay tại thế gian đây cũng phải hiểu, tất cả các pháp thế gian đều phải hiểu; khi hiểu rồi thì biết được cái giá trị của đạo.
Lại thấy có Bồ-Tát
Đầu, mắt và thân thể
Đều ưa vui thí cho
Để cầu trí tuệ Phật.
Thì để cầu được vô thượng đạo, thì trước hết mình phải bố thí được cái vợ cái con trong tạng thức mình thì lúc này đầu mắt và thân thể này nó mới thọ nhận được các pháp giải thoát, xa rời được tục pháp rồi thì liền đến cửa đạo.
Cái đầu của mình một lòng một dạ hướng về con đường tu đạo giải thoát, con mắt của mình xa rời không đắm nhiễm nơi các pháp thế gian nóng khổ. Tất cả đều ưa vui trong cái cảnh vui của Bồ tát đạo chứ không nhiễm thế gian; biết thế gian chứ không nhiễm thế gian, gọi là đều ưa vui thí cho.
Bố thí được như vậy mới gọi là để cầu trí tuệ Phật.
Thì: Đầu, mắt và thân thể
Cái đầu của mình không có cái ý niệm tham nhiễm nữa, không còn đấu tranh đương đầu với những phiền não nữa, không còn sót đậu lại cái gì nữa, không còn cái khái niệm vợ con ái nhiễm nào nữa. Cái mắt của mình nó không có ngóng về nơi phàm tục nào nữa, thì cái thân thể này nó mới trang nghiêm thanh tịnh thì đều ưa vui thí cho hết rồi. Thí cho hết rồi thì mới cầu được trí huệ Phật.
Chớ còn tu mà còn khái niệm vợ con thì sao mà tu được, rồi trước sau gì cũng về với vợ con ở ngoài đời thực thôi.
Ông chưa bố thí được tức là ông còn ôm trong lòng, ông còn bức rức day dứt mong cầu; tức là một ngày đẹp trời nào người ta không đi tìm ông thì ông cũng tự thò đầu ra thôi; thò đầu ra đứa nào đó nó thấy mà ông cũng thấy nó, rồi hai đứa cùng cười; thì chỉ cần ba nốt nhạc là đủ thời gian để nó lôi đầu ông đi ra cái thiên đường địa ngục trần gian này rồi.
Thì ở thế gian này mình thấy đây:
Thiếu gì người đi tu rồi hoàn tục; thì cũng chính họ nuôi cái tư tưởng vợ con, không có chịu bố thí cái tư tưởng này đi thì làm sao sáng đạo, làm sao tu hành.
Ngài Văn-Thù Sư Lợi!
Ta thấy các Quốc-vương
Qua đến chỗ của Phật
Thưa hỏi đạo vô thượng
Bèn bỏ nước vui vẻ
Cung điện cả thần thiếp
Cạo sạch râu lẫn tóc
Mà mặc y pháp phục.
Rồi giờ: Ta thấy các quốc vương; thì quốc vương này là ai?
Là người cai quản một vương quốc; thì đây không phải đơn thuần nói đó là một ông vua dục giới, hay cai quản Trung quốc, Việt Nam hay Mỹ nào đó.
Mà quốc vương này đây là một người cai quản 6 cái giới, tức là: Nhãn giới, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý thức giới; mỗi cái giới này nó đều có râu tóc của nó.
Thì mỗi người cũng chính là vị quốc vương coi quản 6 cái cõi này; 6 cõi này nó mới qua đến chỗ của Phật mà thưa hỏi đạo vô thượng.
Mà Phật ở đâu mà thưa hỏi?
Thì người này phải thấy được cái phật tánh thì mới thưa hỏi được, mà muốn thấy được phật tánh thì phải thấy được cái phàm, mà cái phàm thì nó cũng ở ngay trong sáu căn của mình; rồi mới thấy được một cái con đường nào đó nó an lành thì mới tiếp tục thưa hỏi. Nhưng mà bây giờ râu tóc nó mọc tùm lum nó che mắt sáu cái căn này rồi; không có thấy đường nữa. Thì buộc người tu phải cạo sạch râu lẫn tóc.
Thì thưa hỏi ở đây là mình phải thưa hỏi ngay trong cái thời đại này trước, kinh pháp luận giải ở quanh đây trước. Còn ông Phật ổng kể cái chuyện có một ông vua nào đó xa xôi thì kệ ổng chứ liên quan gì tới mình bây giờ đâu. Thì đây cũng là đang ám chỉ cái kinh điển này nó có nhiều thứ lớp nghĩa.
Rồi tiếp tục mình là một vị quốc vương cai quản 6 cái giới này, mình mới thưa hỏi ra được cái đạo vô thượng tức là cái đạo bình thường ngay tại thế gian này. Mình ngộ được lý thế gian, ngộ được tất cả các cảnh đời rồi mới sáng ra được cái con đường đạo.
Thì lúc này mới bèn bỏ nước vui vẻ.
Thì cái nước này là cái nước danh lợi, cái nước tham, nước sân si nó không có lợi ích; nó chỉ đốt cháy tâm can, nó thiêu rụi căn lành, nó phiền não thì giờ mới phải từ bỏ cái nước đó đi.
Rồi: cung điện cả thần thiếp
Thì cung điện là trong cái thế gian nơi mình vui chơi chìm đắm điên loạn trong đó thì giờ mình cũng bỏ cái cung điện đó luôn.
Thì cung điện này cũng tức là cái cung điện ngay trong cái căn nhà thế tục này; người đời trong thế gian nhiều người họ cũng có nhiều thần thiếp. Mà thần thiếp cũng có nghĩa là những người bồ; ông quen người này, ông quen người kia; rồi ông lại thích người này, ông tán người kia thì cũng đều gọi là bồ. Cái bồ này nó làm cho mình ngủ thiếp đi, mình mê man quên hết mọi thứ không có nhớ gì đến tâm đạo.
Thì bây giờ mình mới cạo sạch râu lẫn tóc.
Thì râu lẫn tóc ở đây không có đơn thuần là cái râu tóc ở trên người mình; nhưng mà bây giờ mượn cái tướng râu tóc để chỉ những cái cung điện thần thiếp này nó cũng là râu và tóc, những cái pháp nhiễm này thì phải cạo sạch hết.
Bởi vì sao phải cạo cái râu lẫn tóc này?
Bởi vì không cạo sạch nó đi, chắn chắc anh có vui tới một giờ khắc nào đó thôi, rồi cũng từ cái râu ria này anh rầu rĩ; rồi cũng sẽ tang tóc không còn gì, nó sẽ làm khổ anh chứ không sướng được.
Giờ từ bỏ để mà mặc y pháp phục.
Thì pháp phục tức là một cái phương pháp điều phục, điều phục được rồi thì là phúc, thì phúc này là từ cái cung điện thế gian để đi vào cung điện an lạc giải thoát bền vững hơn chứ không bao giờ chịu thiệt.
Hoặc lại thấy Bồ-Tát
Mà hiện làm Tỳ-kheo
Một mình ở vắng vẻ
Ưa vui tụng kinh điển
Hoặc thấy vị Bồ tát, mà hiện làm tỳ kheo:
Tức là vị Bồ tát mà hiện làm tướng tỳ kheo; bởi vì sao hiện tướng tỳ kheo?
Bởi vì Bồ tát là không có một hình tướng nào cụ thể cả, mà tỳ kheo lại có hình tướng cụ thể.
Bây giờ tỳ kheo là gì?
Như ở trong đời người ta nói rằng: Có tỳ kheo tăng, tỳ kheo ni thì cũng đều là tỳ kheo. Mà bây giờ mình nghĩ kỹ coi: Nếu họ là tỳ kheo ni thì họ một mình ở vắng vẻ thì có tiện không; thì dù gì họ cũng là thân nữ, chính vì thân nữ nên không bao giờ tiện được ở chỗ này.
Ở trên đây Phật chỉ nói là tỳ kheo thôi chớ đâu có nói là tỳ kheo tăng hay tỳ kheo ni đâu, nhưng mình nghe tỳ kheo là mình nghĩ chỉ có hình tượng ra ông tỳ kheo tăng già nào thôi, chứ ít ai nghĩ đến bà tỳ kheo.
Thì bây giờ tỳ kheo nào cũng được cả, kinh này Phật không nói cho riêng ai, nhưng đã hiện làm tỳ kheo rồi thì một mình ở vắng vẻ, tức là mình không có vọng vô một ai cả; bây giờ mình có sống xung quanh trăm ngàn người đi nữa thì cũng không có để cho cái tâm nó loạn động thì gọi là một mình ở vắng vẻ; tâm mình đã vắng vẻ rồi thì mình mới nhiếp tâm được, nhiếp tâm ý được rồi thì mới ưa vui tụng kinh điển.
Ví dụ bây giờ mình đang tụng kinh điển; mình đang ngồi nghiên cứu kinh pháp thì có một nhóm phật tử ghé vào chùa, rồi nào là mấy chiếc xe sang, ăn mặc sang trọng, cung kính chắp chay. Mình từ trong chùa mình ngó ra mình thấy vậy:
- Ô, đoàn nào đến nhìn dữ dội vậy, thì tới đây cái tâm mình loạn động mất rồi; mình ngồi tu nhưng mình bị vọng ra mấy cái xe con, vọng ra mấy cái bộ đồ sang trọng thì có còn một mình ưa vắng vẻ nữa không.
Lúc này là đâu còn vắng vẻ, thấy người ta sang trọng là động lòng ưa ra để tiếp khách mất rồi. Thì tỳ kheo vẫn là tỳ kheo chứ không thể nào bồ tát được.
Ừ; thì mình vẫn tu, vẫn ưa vui tụng kinh điển; nhưng cái ưa vui tụng kinh điển này có thật sự vắng vẻ chưa mới là chuyện khó.
Cũng thấy có Bồ-Tát
Dõng mãnh và tinh tấn
Vào ở nơi thâm sơn
Suy xét mối Phật đạo
Và thấy bậc ly dục
Thường ở chỗ không nhàn
Sâu tu các thiền định
Được năm món thần thông
Cũng thấy có Bồ tát, dõng mãnh và tinh tấn là gì?
Thì tôi nói rồi đó, Bồ tát thì không có trụ vào bất cứ một hình tướng cụ thể nào cả; không có tính đó là tỳ kheo, tỳ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di nào cả.
Thì mới thấy có Bồ tát dõng mãnh và tinh tấn; dõng mãnh tức là họ quyết tâm họ có cái thần lực mạnh mẽ thì mới dõng mãnh được, tinh tấn tức là họ cố gắng họ tinh chuyên tấn chỉ tận tâm không có lơ là.
Thì họ mới vào nơi thâm sơn, rồi thâm sơn là ở đâu?
Tức là mình tu là để vào rồi thấy được cái thâm sâu nơi các pháp, thấy được cái tâm của mình nó sâu hay cạn, nó chưa sâu thì phải đào cho nó sâu ra rồi mình mới sơn vẽ tô điểm cho cái ý; suy rồi xét ra được cái mối của Phật đạo. Thì cái mối này là để mình mở ra, mở ra cái đầu dây mối nhợ để đi đến Phật đạo.
Và thấy bậc ly dục
Dục là gì?
Dục là muốn, muốn cái gì?
Muốn tiền tài vật chất, ham sắc trai sắc gái, muốn danh vọng quyền lợi, muốn ăn và tham ngủ; thì đây chính là năm món dục.
Thì bây giờ mình có thấy mình ly dục được chưa, nếu mà chưa thì chưa phải là thấy bậc ly dục. Mình đọc kinh mà không chịu hiểu nghĩa thì chỉ là đọc vẹt thôi.
Thì bây giờ muốn ly dục này thì thường ở chỗ không nhàn; tức là mình phải siêng năng tinh tấn, không có nhàn hạ ở cái chỗ năm món dục này; khi tu thì tu một cách rất an nhàn, thì cái nhàn này nó khác chứ nó không mất.
Thì ly dục đây là phải tránh xa ra, tách rời ra năm cái món dục này trước.
Thì lại phải sâu tu các thiền định?
Sâu tức là mình phải đào sâu vào cái tâm ý của mình mình thiền, mình thiền tức là mình suy tư động não để mình có được một cái định hướng, rồi từ cái định hướng này mình mới có được cái chỗ để mình định huệ; khi định huệ được rồi thì nó mới mở ra được một cái đỉnh cao mới thì gọi là sâu tu các thiền định.
Thì đỉnh cao ở đây là được năm món thần thông; tức là mình ly được năm món dục mà người thế gian không thể nào ly nổi, rồi mình sâu tu các thiền định. Thì từ chỗ này mình hơn người ta là hơn cái sức thần, cái tinh thần nó được thông suốt thì cũng gọi là thần thông. Thì cái thần thông ở đây mình phải hiểu theo cái nghĩa ám chỉ vào cái tâm của mình trước, vào tất cả các pháp mình được tự tại không có bị ràng buộc bởi tam độc, năm món dục nữa.
Và thấy vị Bồ-Tát
Chắp tay trụ thiền định
Dùng ngàn muôn bài kệ
Khen ngợi các Pháp-vương
Lại thấy có Bồ-Tát
Trí sâu chí bền chắc
Hay hỏi các đức Phật
Nghe rồi đều thọ trì.
Thì cũng ngay trong thế gian này có một người nào đó vô duyên vô cớ họ tới chửi mình, lăng mạ mạt sát hoặc họ vu oan giá họa cho mình họ mưu toan cái gì đó; thì như vậy lúc này mình làm gì.
Có nổi khùng lên không?
Thì đúng là vị bồ tát thì họ phải chắp tay trụ thiền định, thì cũng cái chỗ thiền định thì mới thấy biết cái hướng giải quyết. Chứ bây giờ nổi khùng lên cũng không được, mà im lặng cũng không xong.
Thì chính chỗ này mình mới dùng ngàn muôn bài kệ, thì bài này cũng giống như là từ một cái bài học; mà kệ này cũng cũng giống như một cái kế hoạch, có cái kế hoạch thì mới dùng cái lý lẽ đúng đắn mình hàng phục họ cũng như những người xung quanh.
Thì mặc kệ mọi thứ khó khăn có đến với mình nhưng mình đều chắp tay trụ thiền định.
Thì lúc này mình mới mới tôn lên được cái lời lẽ âm thanh giọng tiếng giải thoát thanh tịnh thì thật sự mới là đáng khen ngợi, mới thật sự là các pháp vương.
Trí sâu chí bền chắc là từ cái chỗ mình dùng được nghìn muôn bài kệ này thì cái trí mới thực sự là sâu; sâu không thấy đáy, người đời không thể lường được thì mới gọi là sâu. Từ cái chỗ sâu này thì cái chí tức là cái ý chí, chí nguyện nó mới thật sự bền chắc.
Giờ mình ngu quá, cái gì mình cũng để cho người ta qua mặt, cái gì mình cũng để cho người ta hiếp đáp mình mà mình không có chống chế hay hàng phục được họ, thì chí của mình có mạnh bao nhiêu đi nữa nó cũng đập nát bét, trụ không nổi. Thì buộc mình phải có trí sâu và bền chắc.
Hay hỏi các Đức Phật là phải hỏi cái trí của mình đã học được gì, cái kinh điển Phật để lại thế gian đây cũng được ghi lại trong tam tạng kinh điển hết rồi, có thắc mắc gì cứ mở ra đó mà tìm, tìm rồi tin hiểu thực hành được cái gì, thấy có lý không rồi tự vấn lại lương tâm của mình để mà nghe rồi đều thọ trì.
Lại thấy hàng Phật tử
Định huệ trọn đầy đủ
Dùng vô lượng tỉ dụ
Vì chúng mà giảng pháp
Lại thấy hàng phật tử tức là con Phật, mà con Phật là tất cả các hàng tu, con Phật thì phải hàng phục hiểu biết được cái định huệ cho nó trọn đầy đủ.
Thì cái cái chỗ đầy đủ này nghĩa là đúng và đủ, từ cái đúng đủ này thì mới dùng được vô lượng cái dụ; tức là cái phương pháp để dụ bày, dù là các pháp có là vô lượng đi chăng nữa nhưng mình đong đếm hạn lượng được để mà tỉ dụ cho tất cả mọi cái đối tượng vì chúng mà giảng pháp.
Bởi vì cái tâm ý của mình là vô lượng; không thể hạn lượng được.
Mà muốn vì chúng mà giảng pháp thì định huệ phải trọn đầy đủ; nếu không đầy đủ thì thắc mắc, mà đã thắc mắc thì dễ chấp dính thì không thể nói dùng vô lượng tỉ dụ được; thì chỉ là tùy sức diễn nói, tùy năng lực.
Thì như vậy phật tử này phải chính là bản thân mình trước, bản thân mình phải thấy được tất cả các nghĩa giải thoát không có sai lầm, phải thấy được cái định của mình đó đang nằm ở chỗ nào. Mà còn có nghi lầm thì phải dùng định huệ mà trang nghiêm cho nó tốt đẹp hơn, dùng định huệ mà thấy biết tất cả chúng, thì vì chúng mà giảng pháp.
Giảng đây không có nghĩa chỉ là giảng nói bằng cái ngôn ngữ, mà phải giảng bằng một cái phương pháp, pháp giới; thì phải dùng thần lực mạnh mẽ để mà đi vào giới, các pháp mà không có hề run sợ.
Bởi vì sao anh không có run sợ?
Bởi vì định huệ trọn đầy đủ thì anh phải biết nên làm gì, nói gì, vào lúc nào, tại sao...
Vui ưa nói các pháp
Dạy bảo các Bồ-Tát
Phá dẹp chúng binh ma
Mà đánh rền trống pháp
Vui ưa nói các pháp là sao?
Bây giờ có một người nào đó tới gặp mình để xin chỉ bày cho họ được tu, được hiểu biết, họ cung kính tôn trọng mình không có trái ý.
Thì bây giờ nhiều người tới như vậy nữa, mình nói miết rồi mình có biết mệt không. Thì làm sao đó nói ít nói nhiều gì cũng được, nhưng mình phải nói cho họ cái đạo của Bồ tát, cái tâm pháp của mình phải trao truyền cho chúng sanh.
Bây giờ mình không có thời gian để mình nói pháp nữa, vì nhiều quá; cứ nói đi nói lại hết người này đến người kia mình mệt mình không nói nổi.
Thì bây giờ đơn giản thôi mà: Viết ra, biên soạn viết lại trên sách cho người ta đọc người ta hiểu cũng được mà, in ra cho người ta đọc cũng đều được hết; rồi lúc nào người ta đọc mà người ta không hiểu nữa thì cần nói thì cũng phải nói. Chỉ sợ là nói thì nói không xong, mà viết thì viết cũng chẳng được, không đủ cái trình độ mới là cái khó. Đã nói được là viết được, mà đã viết được thì cũng coi như là thay lời muốn nói thì cũng gọi là giảng nói.
Mà chính cái vui ưa nói các pháp này mà nó đúng với cái lộ trình tu của Bồ tát đạo, có thể chỉ bày cái con đường tu cho Bồ tát đạo để đi Phật đạo thì sẽ phá dẹp chúng binh ma, mà đánh rền trống pháp.
Tại sao lại đánh rền trống pháp?
Tức là phải đánh vào cái chỗ rền, cái chỗ rên la của chỗ chúng sanh. Bồ tát là phải đi đánh trận ở thế gian này nè.
Đánh trận là đánh vào đâu?
Đánh vào cái trần ai của chúng sanh; chúng sanh đau khổ quá, chúng sanh nghiệp núi chất chồng; thì bây giờ Bồ tát đạo tu là phải đánh tan cái núi nghiệp chất chồng đó đi thì nó mới gọi là rền vang chứ không còn gọi là rền la nữa.
Thì cái trống pháp gì?
Thì phải đánh vào cái chỗ trống của chúng sanh; chúng sanh cái chỗ trống vắng mà chưa có trồng cái hạt giống lành mạnh thì bây giờ phải trồng cho nó; nó đây là bản thân mình trước. Trồng cho nó nhưng nó không có chịu trông coi, hắn chỉ trông ngóng nơi bến sanh tử thôi chứ không có chịu tu giải thoát; thì bắt buộc bây giờ phải có một cái pháp gì đó thì từ trong nội tâm cho đến hữu tướng bên ngoài tùy đứa nó mới chịu nghe.
Bồ tát thì dễ, chứ chúng sanh thì khó; chúng sanh cứng đầu khó bảo.
Cho nên cái trống của chúng sanh nó làm bằng da trâu, nó bịt hai đầu đánh vào nó mới kêu, nó rỗng ở trong nó mới kêu. Thì nhiều chúng sanh da mặt nó cũng dày như da trâu vậy đó, chửi thẳng vô mặt, nạt nộ; moi tim móc ruột, uống nước đồng sôi nơi địa ngục đó mà cũng nghe không vô; vì chưa phát khởi được cái huệ căn.
Còn cái trống Bồ tát là cái trống bát nhã, bát nhã thì không có nương nơi đâu cả nhưng nó vẫn nương nơi hư không; mà hư không thì rộng vô cùng, không có ai biết đường mà bịt đầu nào cả.
Thì bây giờ đánh vào chúng sanh không nói, nhưng trước hết là phải đánh vào cái đầu trâu của mình trước; đánh động cái ý thức cho nó rền vang cái trống pháp; đã rền vang được rồi thì ưa vui nói các pháp.
Cùng thấy vị Bồ-Tát
Vắng bặt yên lặng ngồi
Trời, rồng đều cung-kính
Chẳng lấy đó làm mừng,
Cùng thấy vị Bồ tát, vắng bặt yên lặng ngồi. Ổng chỉ vắng bặt yên lặng ngồi thôi thì tại sao được trời rồng cung kính?
Thì trời rồng đây nói về vô tướng trụ hay gọi là tâm linh trụ thì đó là cảnh của chư thiên, long thần. Về hữu tướng trụ là những vị vua, quan đại thần; họ có thể làm mưa làm gió nơi thế gian này.
Một đất nước quốc độ nào dù tốt hay xấu thì cũng đều nương vào những vị trời rồng thần này.
Họ tới, họ đều cung kính vui vẻ chắp tay, rồi cung kính tôn trọng; thì vị Bồ tát đạo này chẳng lấy đó làm mừng.
Vì sao?
Đừng nghĩ rằng trời rồng này là ở một cõi nào đó xa xôi, cõi xa xôi đó đều có hết. Nhưng phải biết rằng Phật đang nói kinh này là nói sát thực tế trong thế gian này đây thì nó mới có ý nghĩa.
Thì kinh nói đây thì vị Bồ tát này là ai?
Đã nói rồi là Bồ tát đó không trụ bất cứ một hình tướng nào hết.
Rồi giờ những vị vua quan các đại thần này đến là đến đâu?
Ở đây không phải là đang nói đến một vị sư vị thầy nào cả, ở trên đời này không có ông nào bằng xương bằng thịt mà gọi là vắng bặt yên lặng ngồi cả, vắng bặt như vậy thì chỉ có chết mới ngồi vắng bặt được; mà chết rồi thì lấy gì mà yên lặng ngồi.
Thì đây:
Vua quan họ tới họ vào chùa. Cái boong, nhang tới. Thì những vị vua quan này họ mới đứng ở dưới này họ ngước đầu họ nhìn lên; nhìn lên đâu, nhìn lên bức tượng; tượng gì:
- Nam Mô Quan thế Âm Bồ Tát, nguyện cho gia đình con được bình an, nguyện cho đất nước được thái bình, muôn dân an lạc ấm no; nguyện cho tai qua nạn khỏi; A Di Đà Phật.
Thì đó: Vắng bặt yên lặng ngồi chỉ có là bức tượng thôi chớ không có ai khác cả; vua quan dân chúng hay bất cứ ai họ tới là họ gặp bức tượng này để họ xin họ nguyện một điều gì đó thì họ sẽ gặp bức tượng này; chùa nào cũng có những Bồ tát này hết, Bồ tát vắng bặt yên lặng ngồi này cũng có mặt khắp mọi nơi.
Thì trong tâm linh Quán Thế Âm Bồ Tát này có được trời rồng cung kính không: Có. Thì đây là cái tướng tâm linh, ai tu được rồi mới thấy.
Thì đã là Bồ tát mẹ hiền Quan Thế Âm rồi, người ta tới người ta dâng hoa cúng dường, cung kính chắp tay người ta xin nguyện phát tâm cúng dường để tai qua nạn khỏi, làm ăn thuận lợi thì Quan Âm Bồ Tát có lấy đó làm mừng không. Bởi vì anh tới là anh đem cái lòng phàm tới trước anh nguyện anh xin, chứ anh có cầu đạo giải thoát đâu.
- Lại phải sai long thần coi xét phước đức, giúp được coi ai có lòng thành thì giúp cho.
Thì công việc của Bồ tát vắng bặt yên lặng ngồi là như vậy; yên lặng ngồi thôi nhưng vẫn âm thầm quan sát làm việc thì trời rồng cung kính, người đời cũng cung kính.
Và thấy có Bồ-Tát
Ở rừng phóng hào quang
Cứu khổ chốn địa ngục
Khiến đều vào Phật đạo.
Vị Bồ tát này là ai mà ở rừng phóng hào quang; thì rừng đây là rừng người, rừng chúng sanh. Người tu đạo ở thế gian này thì mọi người cũng đang ở xung quanh đó.
Thì trong cái rừng người này có những chúng sanh họ đang đau khổ, cái tâm của họ đang bị cái lòng ác chi phối, bị giam cầm trong cái lòng hận thù ganh ghét tham lam, họ như là đang sống trong cảnh địa ngục trần gian.
Thì bây giờ người hành Bồ tát đạo thấy chúng sanh đang đau khổ đủ điều như vậy thì Bồ tát phải làm gì?
Phải giang tay ra, phóng cái ý thanh tịnh ra; cái ý thanh tịnh là cái chơn chánh, rồi bày cho tu để thấy biết được tâm linh, thấy biết được nhân quả là có thật.
Thì từ chỗ này mới khiến họ ra khỏi được địa ngục, mới gọi là cứu khổ chốn địa ngục.
Thì cái hào quang của Bồ tát này đây nó không đơn thuần là cái ánh sáng hào quang nào chói lòa cả, chính cái thần lực mình ở ngay trong thế gian này thì mới gọi là hành Bồ tát đạo, khiến đều vào Phật đạo.
Cho nên Kinh Pháp Hoa này chỉ nói một thừa pháp, đó là Phật thừa; tất cả các thừa thứ lớp đều đi vào Phật thừa.
Lại thấy hàng Phật tử
Chưa từng có ngủ nghỉ
Kinh hành ở trong rừng
Siêng năng cầu Phật đạo
Cũng thấy đủ giới đức
Uy nghi không thiếu sót
Lòng sạch như bảo châu
Để cầu chứng Phật đạo.
Lại thấy hàng phật tử, chưa từng có ngủ nghỉ.
Trên đời này có ai không có ngủ nghỉ mà sống nổi không, có thấy Bồ tát nào như vậy chưa?
Thì ngủ ở đây có nghĩa là mê, mê say; nghỉ tức là dừng lại.
Thì bây giờ một người tu; ví dụ mà mê say một cô gái nào đó đi, rồi bắt đầu mình tơ tưởng, rồi dục vọng nó triền miên mà mình không có hàng phục được thì lúc này mình còn trụ tu được nữa không.
Thì thôi: nghỉ tu.
Thì nghỉ ở đây không phải là nghỉ ngơi mà nghỉ này là rớt luôn. Thì ngủ này cũng là mình chìm luôn trong giấc ngủ đó rồi chứ không thức dậy được nữa; rồi hoàn tục về thì tà mạn tăng gấp đôi, bỏ hết không còn đoái hoài chi đến chuyện đạo nữa ; cho nên cái ngủ nghỉ này nghe thì nó đơn giản vậy thôi, nhưng thật sự là nó cực kỳ nguy hiểm.
Cho nên là mình kinh hành ở trong rừng:
Ở trong rừng này có nhiều yêu ma quỷ quái, tóc xanh tóc đỏ, quần ngắn quần dài, xe to xe nhỏ, tốt có xấu có; muôn ngàn như thế.
Thì Bồ tát đạo ở trong khu rừng này phải siêng năng cầu Phật đạo; tức là phải cầu cái trí lớn, phải cầu con đường giải thoát.
Thì chính ở trong khu rừng nó mới thật sự kiểm chứng được anh tu được bao nhiêu, hành được bao nhiêu.
Thì chính cái chỗ đọa lạc của chúng sanh, muôn ngàn cám dỗ mình kinh hành trong này mới thấy được có đủ giới đức hay không tức là cũng thấy đủ giới đức.
Rồi: Uy nghi không thiếu sót.
Thấy mình có tu đó, nhưng giờ có cái uy chưa, được vô úy chưa; mọi nghi vấn có khúc mắc gì không; còn nghi vấn tức là còn thiếu sót. Còn thiếu sót thì còn chỗ cho người khác chọt vô, chọt vô mà không vững thì nổi sân nổi si thì làm sao lòng sạch như bảo châu được.
Thì bây giờ muốn cầu được Phật đạo thì lòng phải sạch như bảo châu.
Và thấy hàng Phật tử
Trụ vào sức nhẫn nhục
Bị kẻ tăng-thượng-mạn
Mắng rủa cùng đánh đập
Thảy đều hay nhẫn được
Để cầu chứng Phật đạo.
Kinh nói hàng phật tử trụ vào sức nhẫn nhục; thì tại sao lại trụ vào sức nhẫn nhục.
Thì bây giờ muốn nhẫn nhục thì cũng phải có một cái sức để mà trụ vào đó, thì cái này gọi là sức nhẫn nhục.
Thì bây giờ nhẫn nhục thì ai cũng biết, nhưng phải nhẫn nhục làm sao, tại sao phải nhẫn nhục thì bây giờ mình phải đi tìm đào sâu vào cái chữ nhẫn nhục này.
Nhẫn là phải có lòng nhân từ rộng lượng, nếu nhẫn mà không có lòng nhân từ rộng lượng thì sẽ bị tức tối, ấm ức ở trong lòng; ăn không trôi, nuốt không vô.
Nhẫn là phải nhận thức được cái gì đúng cái gì sai rồi ghi nhận đó để nhấn mạnh quan điểm của mình. Nhưng mà phải biết rằng có những người họ tiểu nhân; họ đâm bị thóc chọc bị gạo. Trước mặt mình họ nói không lại, họ kiêu căng không nổi, họ không có lý để nói thì họ lại nói sau lưng họ mắng rủa cùng đâm thọt thì quá cha hơn là đánh đập; bởi vì sao?
Mình tốt mấy thì tốt, mình hiền mấy thì hiền. Nhưng nó không quan tâm điều đó; lợi dụng được mình thì trước mặt họ tâng bốc họ nịnh bợ, a dua theo. Cho nên những người này là những người hai mặt, hoặc là kẻ tăng thượng mạn.
Cho nên những người này họ rất nguy hiểm, gặp họ hiểu rồi là cứ im im bỏ đi chứ đừng hơn thua thuyết giáo gì với họ; đừng dẫn tới gặp tui. Nếu không thì chắn chắc sanh sự, có tài ba tài tình mấy đi nữa mà không nhẫn cũng không được; bất quá thôi thì cười cười nói nói vài ba câu là được rồi.
Thì để cầu chứng được Phật đạo là mình phải am hiểu mấy cái chỗ này trước, từ chỗ này mới có cái Bồ tát đạo cho mình suy xét mình tu trong đó.
Lại thấy có Bồ-Tát
Xa rời sự chơi cười
Và quyến thuộc ngu si
Ưa gần gũi người trí
Chuyên tâm trừ loạn động
Nhiếp niệm ở núi rừng
Trải ức nghìn muôn năm
Để cầu được Phật đạo.
Lại thấy có Bồ-Tát , xa rời sự chơi cười.
Bồ tát đạo tu là xa rời sự chơi cười, thì sự chơi cười này là sự chơi cười của thế gian giữa người phàm tục với nhau.
Ví dụ:
- Mai mấy anh em đi làm mấy ly nhậu, có mồi ngon đầy đủ.
Thì xung quanh mình có muôn ngàn quyến thuộc ngu si; tại sao gọi là quyến thuộc ngu si?
Bởi vì họ chỉ có biết rủ rê, ăn chơi đàn đúm nhậu nhẹt thì họ thích. Nói tới Bồ tát đạo với họ là nghe xa vời lắm, cực đoan mơ hồ lắm; nó kêu mình hoang tưởng. Thì Bồ tát đạo tu rồi, gần gũi những người này không có ích lợi chi hết, cũng chẳng có khuyên nhủ được cái gì, hay có thể là do duyên chưa tới; nói nữa đôi khi hắn càng ghét thêm.
Bởi vì sao?
Bởi vì mình không đồng chung chí hướng với hắn, không cho hắn được cái lợi ích chi; hắn còn đang danh lợi, tham nhiễm nhiều cái; thì bây giờ cứ kệ hắn đi.
Giờ là phải gần gũi những người trí, tức là những người chịu tu; chịu nghe chịu học hiểu để mà thực hành thì đó đã là người trí rồi.
Khờ khờ chậm chậm nghèo nghèo khó khó một chút nhưng mà cũng chịu rửa tai lắng nghe, rồi cũng chịu tin chịu hiểu thì cũng là người có trí. Không nhất thiết người có trí ở đây là phải có bằng này bằng kia, du học nước ngoài, hay khôn lanh nhanh nhẹn mới là người có trí.
Mà họ có trí quá thì nhiều người họ đâu có thèm chơi với mình. Thì đòi hỏi ở đây mình phải có trí hơn người thế gian; trí thế gian có thể không bằng, hoặc kém một chút; nhưng trí giải thoát, trí đạo thì phải sáng. Mình phải có cái gì hoặc bằng hoặc hơn hoặc thua, để mà học hỏi lẫn nhau thì cũng đều được.
Học hỏi lẫn nhau rồi thì mới có cái kinh nghiệm hơn nữa, thì cái kinh nghiệm này không ngoài mục đích là để chuyên tâm trừ loạn động, nhiếp niệm ở núi rừng.
Nhiếp niệm ở núi rừng là thu nhiếp cái gì đó nó đang đè nặng lên cái đầu mình đây, nguyên cả một khu rừng thì có muôn ngàn cái để cho mình học hỏi trong đó.
Thì ví như là trải ức nghìn muôn năm.
Thì tại sao gọi là trải ức nghìn muôn năm; làm gì có ai ở cõi này, Bồ tát nào mà sống cả ức nghìn muôn năm. Thì đây là một cái ám chỉ.
Thì xung quanh mình đây mình ưa gần gũi người trí, thì mỗi người như vậy họ có bao nhiêu năm kinh nghiệm học tập sống sót cho tới bây giờ, già trẻ lớn bé đều có, chưa kể thư tịch cổ xưa người ta để lại.
Thì giờ mình mới gần gũi những người này; mình thấy biết học hỏi được nhiều cái kinh nghiệm sống trong nhiều năm họ cũng đem họ thể hiện trước mắt cho mình thấy.
Thì xã hội biết bao nhiêu người như vậy, mình cũng đều quen biết mình đi trong khu rừng này rồi mình trao đổi thấy biết với nhau như vậy thì nó sẽ trở thành bao nhiêu năm.
Thì để cầu được Phật đạo mình phải trải ức nghìn muôn năm, một cuộc đời mình ở đây chưa tới một trăm năm, mình sống ở thành phố bao nhiêu kinh sách kiến thức tất cả đều có hết.
Mà Bồ tát nhiếp niệm trong núi rừng trải ức nghìn muôn năm thì có phải quá lãng phí thời gian không; nhiếp niệm tu chi mà lâu vậy.
Thì bây giờ có trải ức nghìn muôn năm đi nữa thì cũng phải gom xuống thành mấy chục năm thôi; hiểu càng nhanh đi càng nhanh, mà không hiểu thì đi đến tận muôn đời; đơn giản nó chỉ có như vậy thôi.
Lại thấy vị Bồ-Tát
Đồ ăn uống ngọt ngon
Cùng trăm món thuốc thang
Đem cúng Phật và Tăng,
Lại thấy vị Bồ tát, đồ ăn uống ngọt ngon.
Mình nghe vậy chắc mình nghĩ mấy ông Bồ tát này chắc ăn ngon lắm đây.
Thức ăn của Bồ tát là gì vậy?
Là kinh pháp mình học tu thực hành đây thôi, cái đồ ăn mới gọi là ngọt ngon, cái pháp vị no đủ, cái đồ uống là cái khí huyết của mình nó lưu thông thì đó mới gọi là mát lành; nó làm tươi mát cái pháp thân của mình.
Thì bây giờ cái đồ ăn uống đây gọi là pháp cho nên mới nói là đem cúng Phật và tăng, chứ đâu có cúng cho pháp đâu.
Mà tăng là ai, tăng có phải là ông thầy tăng không, rồi ni có gọi là tăng không?
Rồi Bồ tát cúng dường cho tăng mà tăng thì không thanh tịnh thì có gọi là tăng không?
Thì cái nghĩa cúng dường đồ ăn uống ngọt ngon này nó cao siêu lắm chứ không phải như mình nghĩ đâu; cúng dường Phật và tăng là như vậy.
Rồi bây giờ mình hiểu Phật và tăng là gì chưa?
Tại sao anh phải quy y Phật, quy y Phật là gì, Phật pháp tăng là gì?
Thì bây giờ chúng ta có bài tam quy y, đầu tiên là quy y Phật. Bởi vì nương nơi tướng thế gian thì có đạo Phật, thì Phật là có đầu tiên; rồi có pháp, có tăng.
Rồi đây:
Tự quy y Phật
Đương nguyện chúng sanh
Thể giải đại đạo
Phát vô thượng tâm.
Thì tự quy y Phật là gì?
Thì tự mình mới quy y Phật được, chứ không ai có thể quy y cho mình được cho nên gọi là tự quy y Phật.
Quy y Phật là phải nguyện cho chúng sanh, tức là phải phát được cái lòng bồ tát. Mà phát chưa được bởi vì chưa hiểu gì để mà phát, thì giờ muốn hiểu được thì phải: Thể giải đại đạo trước; tức là thấy được, giải bày ra được cái đạo lớn. Giải bày ra được rồi thấy hay quá mới bắt đầu phát vô thượng tâm.
Thì phát vô thượng tâm này là phát cái lòng tu. Phát cái lòng tu rồi thì mới có cửa để quy y pháp. Thì quy pháp là:
Tự quy y pháp
Đương nguyện chúng sanh
Thâm nhập kinh tạng
Trí huệ như hải.
Tức là ông phải hiểu được các pháp, ông phải thâm nhập được kinh tạng; thâm nhập vào được các tạng pháp, các tạng thức cảnh giới của pháp đều rõ biết. Rõ biết rồi thì trí huệ như biển; lúc này mới gọi là quy y pháp. Cho nên quy y pháp này cũng khó vô cùng.
Ông thực hành thâm nhập được thì mới gọi là quy y pháp. Còn không, thì Phật cũng không thể quy y cho ông, cho nên chỗ này mới gọi là tự quy y.
Tự quy y tăng
Đương nguyện chúng sanh
Thống lý đại chúng
Nhất thiết vô ngại.
Tăng là ai? Tăng là chúng sanh đó. Tại sao ông nói tăng là chúng sanh, không lẽ tôi quy tam bảo trong đó có tăng là tôi quy y chúng sanh à?
Ừ, thì ông nghe nè:
Thì bây giờ ông không biết tăng là ai, nhưng ông phải biết quy y tăng là gì.
Thì đó, nghe cho kỹ: Thống lý đại chúng, nhất thiết vô ngại.
Tức là khi nào ông thống lý được đại chúng, tức là ông giáo hóa được chúng sanh mà tất cả đối với ông là vô ngại, tức là ông không có ngần ngại chi hết. Khi đó ông trở thành một vị đạo sư thật sự thì mới gọi là quy y tăng.
Thấy không?
Tự quy y tăng. Tự mình mới có thể quy y tăng được, không có ông tăng nào có thể quy y được cho ông hết; một vị chư tăng quy y cho ông, rồi cấp giấy chứng điệp cho ông thì đó chỉ là mượn tướng phương tiện để dụ dẫn ông tu thôi; thì đó cũng là quy y nhưng ông mới chỉ quy y được cái lớp vỏ bên ngoài thôi; vị thầy tăng đó đã làm lễ nhập đạo cho ông thôi, ông nhận vị đó làm thầy, làm sư phụ thôi chứ chưa phải là quy y tăng.
Bởi vì sao?
Bởi vì vị tăng đó thánh hay phàm chưa biết được.
Rồi một mai vị thầy đó hoàn tục thì ông lấy ai làm thầy; cho nên ở chỗ này ông phải hiểu nghĩa rốt ráo hơn.
Không phải tui kêu ông phản thầy phản tổ chi hết; đó cũng là một nhơn duyên lành thì ông cứ theo thôi, ông cứ nương về đó cũng được. Nhưng giờ ông phải hiểu rằng tất cả chỉ là phương tiện tạm thời thôi, không phải là chắc trực, thì ông phải thấy được quy y tăng thực sự là gì.
Thì như vậy ông phải hiểu rằng khi nào ông làm đạo sư thật sự, dẫn chúng sanh đến con đường giải thoát thì lúc đó ông thấy được quy y tăng thực sự là thế đó.
Thì cái chỗ đem cúng Phật và tăng này nó cao siêu sâu rộng lắm, chứ không phải cúng Phật và tăng là cúng đồ ăn uống ngọt ngon thôi đâu.
Rồi giảng giải tiếp tục:
Cùng trăm món thuốc thang
Đem cúng Phật và Tăng,
Cùng trăm món thuốc thang; thì cái thuốc này là cái gì?
Thì món là cái món này nó giống như có thể ăn được, ăn vào cái tạng thức của mình; cái món thuốc này nó có thể chữa trị cho cái tâm ý nào đó của mình; rồi trăm món thuốc thang như vậy Bồ tát đạo có thể truyền bày cho nhiều người nữa tiếp thu học được những món thuốc này để đem cúng Phật và tăng.
Mà cúng Phật có nghĩa là tăng trưởng trí tuệ nuôi thân tuệ mạng, mà cúng tăng có nghĩa là giáo hóa chúng sanh, thống lý đại chúng, nhất thiết vô ngại. Đây là thắng nghĩa đế của Bồ tát đạo, đôi khi mình đọc đó hằng ngày mà mình không hiểu ra.
Áo tốt đồ thượng phục
Giá đáng đến nghìn muôn
Hoặc là vô giá y
Dùng nghìn muôn ức thứ
Nhà báu bằng Chiên đàn
Các giường nằm tốt đẹp
Để cúng Phật cùng Tăng
Áo tốt đồ thượng phục, giá đáng đến nghìn muôn.
Cái áo tốt gì mà giá đáng đến nghìn muôn; mà nghìn muôn là muôn cái gì?
Thì cái tốt này không phải là cái áo mình mặc trên người mà làm bằng vải vóc đây đâu; cái áo này là cái sự uyên áo, chỉ có cái sự uyên áo này mới là đồ tốt thượng phục. Mà thượng phục là cái sự cao thượng Bồ tát đạo phục vụ giúp ích cho chúng sanh gọi là giá đáng đến nghìn muôn.
Nghìn muôn này là nghìn muôn cái lợi ích cho đời để dẫn chúng sanh đến con đường an lạc giải thoát.
Hoặc là vô giá y, dùng nghìn muôn ức thứ
Y theo cái tấm lòng chơn chánh, cái ý chơn chánh nó là vô giá y; không có tiền bạc của cải vật chất thế gian nào có thể mua được nó cho nên gọi là vô giá y. Thì bây giờ dùng trăm nghìn muôn ức cái ý chơn chánh như vậy để cúng Phật và tăng.
Nhà báu bằng Chiên đàn, các giường nằm tốt đẹp, để cúng Phật cùng Tăng.
Cái nhà là cái thân, còn báu ở chỗ là cái tâm lượng quý báu nó được làm bằng chiên đàn; chiên là chuyên cần, đàn là ngay thẳng đàng hoàng. Cái nhà mà không xây dựng cho ngay thẳng đàng hoàng thì sẽ dột, sụp.
Thì trong căn nhà này nó mới có các giường nằm tốt đẹp, thì cái giường nằm không phải là cái giường ngủ của thế gian, nhưng mà mượn cái tướng cái giường của thế gian để chỉ cho cái chỗ nằm của Bồ tát đạo.
Cái giường nằm tốt đẹp là gì?
Thì ngay cả khi mình ngủ đi nữa thì cũng có những cái cảnh giới an lành, có những cái giấc mộng tịnh quang làm cho mình sáng đạo hiểu biết về các cảnh giới của tạng thức.
Thì tất cả các cảnh đó đều là để cho mình thâm nhập được các tạng pháp báu, diện kiến được Phật đạo.
Rừng vườn rất thanh tịnh
Bông trái đều sum sê
Suối chảy cùng ao tắm
Cúng cho Phật và Tăng,
Rừng vườn rất thanh tịnh, bông trái đều sum sê.
Rừng vườn này cũng là cái thân khẩu ý của mình nó được thanh tịnh.
Mà thanh tịnh là gì?
Thanh tịnh này không có nghĩa là không có gì, hay im lặng; thanh này tức là động, nhưng động này là động trí động não; động não thì mới độ được chúng sanh, độ được chúng sanh rồi hoặc mệt quá nghỉ ngơi yên lặng hoặc là lắng sâu xuống thì gọi là tịnh; thanh tịnh của Bồ tát đạo là như vậy.
Thì từ cái chỗ mà thanh tịnh thật sự rồi thì bông trái mới sum sê; bông trái này là cái thành quả mới đạt được cho mình trước. Mình tu được rồi giảng nói pháp thanh tịnh, chúng sanh đều ưa nghe tin hiểu thọ trì; muôn người như vậy cũng đồng tu theo lại cũng gọi là bông trái đều sum sê.
Thì trước mắt bây giờ có hai nghĩa: Một là nghĩa nội tâm, hai là nghĩa ngoại tướng; thì ngoại tướng là chúng sanh cũng được nương vào đó.
Rồi: suối chảy cùng ao tắm. Tức là cái suối nguồn của pháp nó bắt đầu tuôn chảy từ cái tâm thanh tịnh của mình nó phát thành ý nó lại chảy nó phát ra thành lời lẽ thì chúng sanh lại nghe thấy.
Thì bây giờ trong cái lời lẽ này thanh tịnh rốt ráo chúng sanh hay người tu nghe thấy đúng đắn quá, nó mới rót vào tai mỗi người, nó lưu vào cái trí não rồi nó đọng lại ở đó thì thành cái ao tắm thì lúc này tùy mỗi người thọ nhận được bao nhiêu.
Thì bây giờ lấy cái chỗ thanh tịnh này đây, cúng Phật và tăng.
Lại có vị Bồ-Tát
Giảng nói pháp tịch diệt
Dùng các lời dạy dỗ
Dạy vô số chúng sanh
Vị Bồ tát này là giảng nói pháp tịch diệt, pháp tịch diệt ở đây là không nhất thiết phải có ngôn ngữ.
Ví dụ một người đến chùa tháp nơi tu viện, thì đây là cái nơi yên lặng; mọi người đến đây rồi, thì phải tự dùng cái lòng tu, tự đi học hỏi; học hỏi bằng cái tâm tịch tĩnh chuyên tâm thiền định để mà diệt đi cái vô minh, phát trí bồ đề thì trong này nó vẫn có những lời lẽ.
Thì chính chỗ này người vào sau phải nương người vào trước; vô số chúng sanh hằng ngày lui tới rồi ai tới đây rồi tự họ thấy cái thanh quy, quy củ của mỗi người tu ở đây họ thấy trang nghiêm thanh tịnh quá họ mới tự phát cái cung kính rồi tìm hiểu nương về cửa đạo.
Cũng chính vì ngay đây, mình tu lúc này chưa cần phải nói pháp cái chi cả nhưng họ thấy cái pháp tịch diệt của mình nó tỏa ra như vậy rồi làm cho họ cảm thấy có cái gì đáng phải trân trọng tìm hiểu trong này.
Thì bây giờ mình tu đàng hoàng tử tế thôi, không cần phải nói gì cả; cứ làm việc cần làm, tu việc cần tu, giữ đúng các giới pháp thì cũng đã là dùng các lời dạy dỗ một cách tự nhiên rồi.
Rồi bây giờ mình tới chùa viện thấy có người ra rước đón; rồi họ ăn nói thì bộp chộp to tiếng, hành động thì nhố nhăng rồi chỉ đông chỉ tây, kiêu căng ngạo mạn, chửi trong chửi ngoài. Thì nhiều chúng sanh hay người có trí thức họ thấy được là lố bịch quá; rồi chưa chi là thấy ra than này than nọ, nói a nói b rồi cũng thấy ám chỉ kêu gọi cúng dường vô đây xây dựng rồi.
Thì đây đâu phải là pháp tịch tĩnh; giờ làm sao phải giảng nói pháp tịch tĩnh trước mới gọi là cao siêu. Chưa có giảng nói được pháp tịch diệt mà đụng nói đó là nhiều chuyện rồi chứ không phải pháp tịch diệt.
Tịch diệt tịch tĩnh được rồi đến lúc ai họ có duyên lành nào nữa họ muốn cầu pháp; thì theo sự hiểu biết mà chỉ bày cho, như thế cũng gọi là dùng các lời dạy dỗ, rồi hướng dẫn giúp cho tất cả những ai cần đến mình thì gọi độ vô số chúng sanh.
Độ vô số chúng sanh ở đây thì con số này không có thống kê được, không biết nó được bao nhiêu cả, được bao nhiêu thì tốt bấy nhiêu chứ không cần tính toán nhiều hay ít.
Hoặc thấy vị Bồ-Tát
Quán sát các pháp tịnh
Đều không có hai tướng
Cũng như khoảng hư không
Lại thấy hàng Phật tử
Tâm không chỗ mê đắm
Dùng món diệu huệ này
Mà cầu đạo vô thượng.
Hoặc thấy vị Bồ tát, quán sát các pháp tịnh. Quán tức là nhìn, nhìn vào các pháp tịnh thì đều không có hai tướng.
Bởi vì sao không có hai tướng, hai tướng gì?
Động và tịnh, động và tịnh này nó không có hai tướng; cũng giống như khoảng hư không vậy, nó không có bất cứ cái tướng nào trong đó cho mình thấy cả.
Thì cái tâm mình cũng vậy thôi; có ai thấy được cái tướng của tâm nó như thế nào không?
Tướng lành tiếng dữ, tiếng thiện tiếng ác, tiếng hay tiếng dở; mà bây giờ Bồ tát đạo tu quán sát các pháp này đều là các pháp tịnh, cái tâm của mình nó có như khoảng hư không thì lúc này nó mới tiếp nhận tất cả; tiếp nhận được rồi, tiếp nhận như thế nào thì chỉ còn một tướng thôi.
Mà tướng này nó cũng như hư không, nó không có động cũng chẳng có tịnh; tức là tâm không chỗ mê đắm, thì bây giờ tướng tịnh cũng không còn luôn.
Bởi vì sao?
Bởi vì có động mới có tịnh, có dơ mới có sạch, có tăng mới có giảm; như hư không có tăng có giảm hay không. Thì cái tướng này nó như tướng hư không thì lấy gì có hai tướng.
Trong nên trong Bát Nhã Tâm Kinh mới nói rằng:
Sắc tức thị không, không tức thị sắc; thọ tưởng hành thức diệc phục như thị.
Thì chính năm chỗ sắc thọ tưởng hành thức này đây mà tâm không chỗ mê đắm thì tức là:
Anh nhìn sắc đẹp ví dụ của một người nào đó nhưng anh không mê đắm tức là: sắc tức thị không. Mà sắc tức thị không tức là anh không động cho nên đâu cần phải tịnh.
Như một bình nước dơ vậy; nó bị dơ anh mới phải lọc nó ra làm cho nó sạch lại. Mà ở đây anh chỉ có tịnh nó thôi, tức là nó vẫn còn ở dưới đáy; ở dưới đáy tức là nó chưa nổi lên, nó chưa có cơ hội để động lên hoặc trồi lên thì khi nó còn đó nó vẫn còn tướng nhiễm.
Thì bây giờ phải như một cái chai nước trong vắt vậy đó, nó trong quá mà đến nỗi như hư không thì anh có thấy được nó sạch hay dơ không.
Thì đây mới gọi tâm không chỗ mê đắm; không có một hạt bụi nào ở trong đó hết; mình có lắc mấy thì lắc, nó vẫn trong vậy thôi.
Cũng giống như ông Thần Tú với ông Huệ Năng.
Thần Tú nói: Thời thời phải lau chùi, chớ để cho bụi bám.
Còn Huệ Năng thì nói: Xưa nay không một vật, chỗ nào bám trần ai.
Thì cái chỗ tâm không chỗ mê đắm thì bụi trần ở đâu ra mà lau.
Thì chỗ này là rất cao siêu; thì bây giờ phải dùng món diệu huệ này, mà cầu đạo vô thượng.
Ngài Văn-Thù Sư-Lợi!
Lại có vị Bồ-Tát
Sau khi Phật diệt độ
Cúng dường Xá-Lợi-Phật.
Vị bồ tát này sau khi Phật diệt độ. Thì diệt độ này đây không phải là Phật chết hay xả bỏ báo thân thế gian xong rồi đem thiêu ra có xá lợi, bồ tát lấy đó lễ lạy cúng dường thôi đâu.
Tức là kinh pháp Phật nói đều còn ngay đây, Phật nói tất cả các kinh pháp xong mới nhập diệt là trên tướng thế gian; thì giờ lấy cái tướng nhập diệt vào một cõi giới nào đó mà nói Phật diệt độ; tức là muốn diệt được phiền não, muốn được độ hóa thì mình phải cúng dướng Xá-Lợi-Phật.
Thì bây giờ nói muốn cúng dường Xá-Lợi-Phật thì phải tu mới có Xá-Lợi-Phật được. Thì cái Xá-Lợi thì mình là phải xá bỏ, xả bỏ được cái danh lợi nhiễm của thế gian thì mới tu được; tu được mới gọi là cúng dường Xá-Lợi-Phật.
Lại thấy hàng Phật tử
Xây dựng các tháp miếu
Nhiều vô số hằng sa
Nghiêm sức khắp cõi nước.
Các hàng phật tử này xây dựng các tháp miếu; cái tháp miếu là cái đền thờ tâm linh, cái đền thờ tâm linh này nó có cảm ứng, nó có thể cảm ứng được nhiều thứ.
Trong cái tháp miếu này nó có thể miêu được nhiều cái cảnh giới của thần thức, nó xây dựng cho mình nhiều cái hiểu biết về cái cảnh giới tâm linh.
Thì bây giờ mình phải xây dựng cái tháp miếu này để mình nghiêm sức cõi nước là cái cõi lòng của mình; mà muốn nghiêm sức thì phải nghiêm trang, nghiêm trang là mình trang hoàng cái lòng mình mới nghiệm ra thấy được một cái sức thần lực ở trong đó.
Thì từ cái cõi lòng mình được nghiêm sức; mình cũng có một cái oai nghiêm thần lực làm lạc lợi được cho nhiều chúng, mỗi chúng sanh là một cõi thì cũng gọi là nghiêm sức khắp cõi nước.
Bảo tháp rất cao đẹp
Đều năm nghìn do tuần.
Bề ngang rộng xứng nhau
Đều hai nghìn do tuần.
Bảo này là cái trí của mình nó cao đẹp lên, cái tháp cũng giống như cái thân của mình; trong thân của mình nó có năm cái căn nữa. Cộng với cái tháp là cái thân thì gọi là 6 căn.
Thì đây mình xây dựng cái bảo tháp là phải xây dựng cái này nè.
Rồi 6 căn này ngang rộng nó đều phải tương xứng với nhau; tức là sáu căn đều đầy đủ. Nó xứng nhau rồi mình hoạt động nó mới được tự nhiên, nếu nó không xứng nhau thì đui chột què quặt, mắt lé tay chân cong quẹo thì chưa gọi là xứng nhau. Xứng nhau thì mới gọi là hai ngàn do tuần; tức là thân và năm căn đều hợp nhất với nhau thì mình tự do một cách tuần tự thì làm việc mới được.
Nói đến đây để biết được rằng, cái thân người này nó quý báu lắm, nó nhiều cái vi diệu trong đó.
Trong mỗi mỗi tháp miếu
Đều có ngàn tràng phan
Màn châu xen thả xuống
Tiếng linh báu hòa reo
Thì trong mỗi mỗi con người như vậy đều có nghìn tràng phan; mỗi tháp miếu tức là một chúng sanh, thì trong mỗi chúng sanh đó đều có ngàn tràng phan; tràng tức là nó tràn đầy cái phiền gọi là tràng, cũng giống như cái tràng hạt vậy.
Thì mượn cái cái tướng tràng phan này nó treo lơ lửng ở trên này để chỉ cho thấy cái tâm của chúng sanh họ đang đeo cái tràng phan này; phan tức là nó phan ngang qua cái đầu của mình
Thì phật tử tu Bồ tát đạo rồi thì phải đi tìm những con người này, họ có ngàn tràng phan trong đó; cái màn châu báu nó thả xuống nó che mất con mắt của họ rồi, họ không có thấy biết được nữa.
Thì tiếng linh báu hòa reo; tức là cái tiếng tâm linh của họ nó hòa reo, nó đang khởi ý sanh diệt; con người chúng sanh nó đang tìm tòi cái chi đó, nó đang reo cái gì đó.
Các vị trời, rồng, thần,
Người cùng với phi nhơn
Hương, hoa, cùng kỹ nhạc
Thường đem đến cúng dường
Ngài Văn-Thù Sư-Lợi!
Các hàng Phật tử kia
Vì cúng dường xá-lợi
Nên trang sức tháp miếu,
Thì bây giờ người tu thực sự trụ trong Bồ tát đạo rồi; thì các trời rồng thần tức là những người họ đang còn trong cái nước danh lợi của thế gian họ mới tìm đến họ đem theo hương, hoa, cùng kỹ nhạc.
Thì mỗi người như vậy họ đến họ đều có một cái mùi hương; thì hương này chính là cái ý muốn của họ; hoặc thơm hoặc thối cũng đều là mùi hương.
Rồi họ đem hoa; tức là đem theo những cái hoa lệ của thế gian, họ ăn mặc tươm tất, họ chuẩn bị chu đáo họ tìm đến thưa hỏi.
Họ tìm đến họ cũng đem theo cái kỹ nhạc; tức là cái tâm tư họ giấu kỹ ở trong lòng, mà cái tâm tư này nó là cái sự nhạt nhẽo của thế gian.
Họ mới đến họ ca cái kỹ nhạc cho mình nghe; họ cúng dường cho mình. Thì họ chịu kể cho mình nghe những cái tâm họ giấu kín trong lòng mà không biết tâm sự kể cho ai nghe, mà nay họ lại nói cho mình nghe thì tức là họ đang cúng dường cho mình.
Mình nghe xong mình có thọ nhận hay không?
Thì bây giờ Bồ tát đạo tu rồi thì phải thọ nhận ngồi ghi nhớ hết các khổ não của chúng sanh.
Ghi nhớ hết rồi thì vì cái con đường Phật đạo này, giờ mình là con nhà Phật mình đã được học cái chơn lý giải thoát để hóa giải cho họ rồi, thì bây giờ mình mới vì cúng dường xá lợi, nên trang sức tháp miếu.
Thì cái xá lợi của Phật chính là cái trí giải thoát mình học rồi có được; có được rồi thì mình phải dùng cái sức trang nghiêm mình trang nghiêm cho cái người tới cúng dường cái hương hoa và kỹ nhạc này cho mình để mình trả lễ cho họ.
Cõi quốc giới tự nhiên
Thù đặc rất tốt đẹp
Như cây Thiên-thụ-vương
Hoa kia đang xòe nở
Cõi quốc giới tự nhiên này là cái trí tuệ nó phát sanh một cách tự nhiên; tới một lúc nào đó thì tự nhiên mọi thứ mình điều hiểu rõ, đều tỏ ngộ ra một cách rất tự nhiên.
Thì chính cái tự nhiên này mới gọi thù đặc rất tốt đẹp; có nghĩa là nó rất đặc thù và đặc biệt. Nó đặc biệt như cây Thiên-thụ-vương vậy đó.
Thiên-thụ-vương có nghĩa là ở trên bầu trời này tự nhiên mình thấy có mọi thứ. Có mặt trời nó soi nắng, rồi trái đất nó quay vòng quanh, mặt trăng nó quay vòng quay có khuyết có tròn; rồi trời có sáng tối, rồi mùa có xuân hạ thu đông; mặt đất thì có trăm ngàn cái cây cỏ hoa lá, rồi chim bay thú chạy cho đến con người vạn vật, có muôn ngàn sự sống.
Thì đây có phải là cõi quốc giới tự nhiên không, cõi quốc giới này cũng rất là thù đặc tốt đẹp; cho nên cái nghĩa trong này nó ám chỉ rất nhiều thứ. Mình nghe mà hiểu đơn giản, hiểu theo nghĩa đen không thôi thì không bao giờ hiểu kinh đang nói cái gì đâu.
Phật phóng một luồng sáng
Ta cùng cả chúng hội
Thấy nơi cõi nước này
Các thứ rất tốt đẹp
Thần lực của chư Phật
Trí huệ đều hi hữu
Phóng một luồng tịnh quang
Soi khắp vô lượng cõi
Chúng ta thấy việc này
Được điều chưa từng có.
Thì bây giờ mình ngồi mình nghe kinh luận giải nghĩa lý đây; thì cái nghĩa lý này là cái nghĩa lý chơn thật, cái lý giải thoát khỏi cái màn đêm mịt mù.
Thì cái luồng sáng nó luồng qua tâm trí mình thì mình có sáng trí chưa; trí có sáng được chưa; trí chưa sáng được thì ánh sáng của Phật chưa soi tới.
Chưa tu được gì thì khoan hãy vọng lên cái luồng sáng chói lòa có vị Phật nào đó phóng ra làm mình chói sáng nào hết; phải ở chỗ cái kinh điển này tu trước, tu rồi mới thấy nơi cõi này lòng này nó có cái ý nghĩa.
Thì chính cái ý nghĩa này là mình phải thấy biết trước thì lúc này thì thần lực của chư Phật, trí huệ đều hi hữu.
Thì khi mà chịu tu chịu học thọ trì đọc tụng rồi thì lúc này chắc chắn là phóng một luồng tịnh quang, soi khắp vô lượng cõi.
Tức là khi mình tu trong cái cảnh giới của tâm linh, cảnh giới của tạng thức thì cái luồng tịnh quang này là có thật. Đó là một cái luồng điển quang thanh tịnh khi mình tu nó chiếu xuống đầu của mình, mới đầu mình thấy nó tê như điện giật vậy, nó rêm lên; bởi vì đó là một nguồn năng lượng mà. Mình tu miết thì mỗi ngày cái cảnh giới trong thân của mình nó càng thông rõ hơn, đi vào được nhiều cảnh giới hơn.
Thì giờ muốn biết là có thật hay không, cảnh giới như thế nào thì tôi chỉ cho luôn:
Tất cả các hàng tu khi tìm hiểu về nghĩa lý và phương pháp tu tập của Tổng trì rồi; giờ muốn biết làm như thế nào để cảm nhận thấy biết cảnh giới tâm linh thì phát nguyện tu trì miên mật trong hai mươi mốt ngày đến sáu mươi ba ngày.
- Bây giờ đi thỉnh cuốn Kinh Pháp Hoa của Hòa thượng Thích Trí Tịnh dịch đem về nhà.
Tại sao?
- Vì là bậc Phổ Hiền dịch kinh văn.
Bây giờ có cuốn kinh rồi mới bắt đầu phát nguyện ăn chay, tu tập thọ trì đọc tụng kinh này trong hai mươi mốt đến sáu mươi ba ngày liên tục.
Trước mắt chỉ cần phát nguyện tu như vậy thôi, sau này chứng biết được đường tu như thế nào rồi thì tự quyết định đường đi của mình tiếp.
Trước mắt không ai bắt tu nhiều tháng nhiều năm, nhiếp pháp trì pháp để cảm nhận định nguồn năng lượng của Hội Thượng Phật Bồ tát; cảnh giới tâm linh giải thoát là có thật mới có đủ tín lực niềm tin để thọ trì đọc tụng giải nói nghĩa kinh.
Điều kiện để tu:
- Ăn chay
- Mỗi ngày phải đọc một cuốn Kinh Pháp Hoa.
- Giữ năm giới
Một cuốn trọn bộ tức là chia thành bảy quyển nhỏ. Bình thường đọc trong khoảng bảy tiếng đồng hồ là xong, đọc nhanh thì hết năm tiếng đồng hồ.
Mỗi sáng sớm ba giờ rưỡi đã phải thức dậy rồi; lúc này đánh răng rửa mặt xong rồi lên đọc kinh. Đọc cho ra tiếng, đọc nhỏ nhỏ hay to đều được.
Thì đọc kinh này cho đến khoảng năm giờ sáng; năm giờ sáng bắt đầu cho nghỉ ngơi một chút gọi là nằm ngủ từ mười lăm đến ba mươi phút.
Thì thường thường ngay cái khung giờ này; bình thường khi mà mình tu trì nhiếp sáu căn trì tạng pháp này liên tục được bảy đến mười hai ngày, nhiều nhất là mười lăm ngày. Thì ngay lúc năm giờ sáng này lúc mình đặt lưng xuống thường thường thì cái luồng tịnh quang này sẽ chiếu xuống, rồi mình đi vào cảnh của tạng thức.
Nghỉ lưng xong rồi, làm chi đó thì làm; có thể tập thể dục hay quét lá tưới cây, hoặc nấu ăn đều được.
Thì lúc này khoảng sáu giờ, hoặc sáu giờ hơn mới ăn cơm.
Ăn cơm xong, nghỉ tí rồi vào đọc Kinh Pháp Hoa tiếp.
Cứ đọc miết cho tới mười giờ hơn, hoặc mười một giờ tới giờ ra ăn cơm.
Ăn cơm xong rửa chén dọn dẹp tới mười hai giờ thì có thể nghỉ lưng một chút, từ nửa tiếng đồng hồ đến gần một tiếng.
Nếu không nghỉ trưa mà rảnh ra trì kinh nhiếp pháp tiếp thì càng tốt.
Thì lúc này khoảng một giờ chiều chi đó mới bắt đầu tụng kinh tiếp cho tới lúc trì hết cả một cuốn kinh thì thôi.
Trì kinh xong rảnh rỗi thì lấy cuốn luận giải Kinh Pháp Hoa ra mà đọc.
Rồi tới tối qua chín giờ đêm thì mới nên đi ngủ.
Bởi vì khi mình ngủ nhiều thì cái uẩn căn nó che khuất nó đầy mất, nó làm cho mình mê thì cái luồng tịnh quang của chư Phật nó lâu chiếu xuống hơn.
Đó cứ như vậy mình tu thôi, trải qua các giai đoạn:
Giai đoạn đầu là từ bốn đến bảy ngày, giai đoạn hai là từ bảy ngày đến mười hai hoặc mười lăm ngày. Trong giai đoạn này sẽ có những hiện tướng của tâm linh trong cảnh giới của thần thức; đừng lo sợ, đó chỉ là cảnh giới hộ niệm rất an lạc và nhẹ nhàng của những dòng khí và điện mà người thế gian chưa bao giờ biết được.
Giai đoạn ba là từ ngày thứ mười lăm đó cho đến hết sáu mươi ba ngày.
Rồi khi mà những cái luồng tịnh quang này chiếu xuống được rồi thì chính xác là được việc chưa từng có. Cả đời mình chưa bao giờ trải qua, cũng chưa có thấy nghe ai nói tới bao giờ.
Thì đây là việc khó biết khó cầu, mà bây giờ đã biết mà không chịu cầu thì nó uổng; chỉ tốn có bấy nhiêu thời gian để kiểm chứng đường tu trước thôi mà không chịu tu thì tôi chịu thua.
Thì có những người cho dù họ ở chùa hay thiện nam tín nữ đến chùa tụng kinh trì chú niệm Phật lai rai cả đời nhưng mà họ không có biết được cái nguyên lý để tìm ra cái cảnh tâm linh phương pháp tu trì thì không bao giờ biết được cái chỗ này.
Xin Phật tử Văn-Thù
Giải quyết lòng chúng nghi
Bốn chúng đều mong ngóng
Nhìn ngài và nhìn ta
Đức Thế-Tôn cớ chi
Phóng ánh quang minh này?
Thì mình nghe tới đây là mình nghi, cơn nghi nó nổi lên; họ không hiểu tới họ thấy xa vời tức là họ sanh nghi.
Thì bốn chúng những người tu trì đều mong ngóng, mong ngóng mà nhìn nhau, nhìn nhau tu rồi nghe kể cho nhau.
Thì tại sao Đức Thế Tôn lại phóng ánh quang minh này?
Thì tu thì phải thấy ánh quang minh này người ta mới vui vẻ người ta tu tiếp được, họ mới thấy vi diệu và an lạc trong cái cảnh giới đó. Thì phóng cái luồng tịnh quang đó chủ yếu gọi là hộ niệm cho mình, hộ niệm cho người nào chịu tu thì cũng đều được thấy ánh quang minh này hết.
Thì đây là nói cho bốn chúng chứ không phải nói cho Bồ tát, Bồ tát người ta tu được rồi người ta biết rồi thì đâu cần phải nói nữa.
Phật tử phải thời đáp
Quyết nghi cho chúng mừng
Có những lợi ích gì
Đức Phật phóng quang này?
Giờ người tu rồi là phải biết, ngay cái thời gian giờ này đây mình có thời gian dư ra, mình đem ra mình công phu không gián đoạn thì mới có cái cảnh giới đó nó mới đáp lại cho mình thấy biết.
Quyết từ ở trong cái chỗ nghi này mình tu ra; chưa tu thì nghi, quyết tu mà tu vô pháp rồi thì làm cho chúng mừng.
Chúng là những cái tâm ý chúng sanh đó nó nghi nghờ, nó không tin được rằng tu như thế này là có lợi ích.
Thì từ cái chỗ nghi nan này rồi mình học biết nghe được nhiều người khác họ tu được hộ niệm cảnh giới rồi họ mừng; họ được cái lợi ích đó, thấy được cái phóng quang này là có thật, cảnh giới tâm linh là có thật, kinh pháp lưu truyền đây là chân thật; nghĩa lý giải thoát trong kinh đã rõ bày; thì chính cái rõ bày này là mình thấy được cái lợi ích gì trong này.
Thấy được lợi ích gì trong này mới gọi Đức Phật phóng quang này.
Khi Phật ngồi đạo tràng
Chứng được pháp thâm diệu
Vì muốn nói Pháp đó
Hay là sẽ thọ ký?
Khi Phật ngồi đạo tràng tức là từ đó cho đến nay cái lúc Phật Thích Ca ngồi tu mà thành tựu chứng biết được pháp thâm diệu này, tức là Pháp Hoa này. Thì mới muốn nói những cái điều này ra; nhưng đâu có nói được, cho nên mới là hay là sẽ thọ ký.
Tức là phải đợi mấy ngàn năm nữa, tôi đã cam kết ký kết rồi. Khi mà trái đất thay đổi đến một cái thời kỳ công nghệ mới, chúng sanh đông đúc, mọi phương tiện đều đầy đủ; con người lúc này có đến hơn bảy tỷ người.
Phật biệt hết rồi nhưng không nói, vì chưa tới thời đại để nói kinh này. Giai đoạn đầu là chỉ nói theo giai đoạn đầu, rồi thọ ký sau này sẽ nương nơi kinh này mà nói tiếp.
Thì như vậy chỉ vì muốn nói pháp này thôi mà phải đợi thời gian mấy ngàn năm như thế, mà đợi mới gọi là thọ ký; ký rồi thì phải lo mà đi chuẩn bị thọ nhận giàn xếp mà làm. Thọ ký rằng: Ừ, lúc đó đó; trải qua bao nhiêu thời gian, bao nhiêu thời đại; khi mà các nơi pháp phương tiện của thế gian đều được hình thành Ta mới nói pháp này; lúc đó nó mới khế hợp được. Bây giờ Ta có nói ra thì chúng sanh cũng không có ai hiểu; như vịt nghe sấm vậy.
Thì bây giờ tôi đang giảng nói bằng ngôn ngữ gì?
Tiếng Việt.
Thì pháp này bây giờ mình mới được nghe, rồi giải nghĩa rõ ràng cho mình biết chứ mấy ngàn năm nay; người Việt Nam mình đọc Kinh Pháp Hoa bằng tiếng Hán Việt không thôi chứ đâu có đọc bằng tiếng Việt. Mà chữ Hán cũng khó học, rồi lại sáng tác ra chữ Nôm; từ chữ Nôm nhưng mà vẫn sử dụng chữ Hán, thời cận đại lòi ra thêm cái chữ La-tinh mình đang sử dụng đây. Cho nên cái chữ Việt này đây nó phong phú vô cùng.
Thì chỗ này là mật nghĩa, giải mã được tiếng Việt này tức là giải mã được mật nghĩa của Vô Lượng Nghĩa Xứ.
Rồi tới ngày tới giờ rồi Phật mới cử ông Phổ Hiền xuống đây dịch kinh văn ra cho mình tu, kinh nào cần dịch trước cho bà con tu ổng dịch hết; dịch xong rồi lại đi, cần thì xuống dịch tiếp.
Mà mình đọc mình tu mình chỉ hiểu được cái nghĩa đen thôi thì mình cũng đâu có hiểu kinh nói gì, cảnh giới hộ niệm ra làm sao. Thì lại phải cử ông Văn Thù xuống giảng nghĩa luận giải một lần nữa cho mình biết.
Cho nên nãy giờ đọc nghe thấy toàn hỏi ông Văn Thù không thôi chứ kinh miêu tả Phật nhập định mất rồi lấy gì đâu mà hỏi. Ngay cả ông Di Lặc hàng đại Bồ tát mà cũng phải đi hỏi, thay mặt bốn chúng hỏi ông Văn Thù.
Hiện bày các cõi Phật
Các báu sạch trang nghiêm
Cùng thấy các đức Phật
Đây không phải cớ nhỏ
Ngài Văn-Thù nên biết
Bốn chúng và Long, Thần
Nhìn xem xét ngài đó
Mong sẽ nói những gì?
Hiện bày ra tất cả các pháp thật, các báu sạch trang nghiêm nó cũng đều nằm ngay trong kinh này; cái cảnh giới của Phật đạo giải thoát nó cũng ở trong này cho nên gọi là cùng thấy các Đức Phật.
Thấy được các Đức Phật tức là thấy được con đường Phật đạo thì đây không phải cớ nhỏ; tức là phải có một duyên cớ nào đó, cái thiên cơ nào đó thì mới có kinh này lưu truyền cho tới tận bây giờ, rồi về tới về Việt Nam mình đây.
Cớ này là cơ rất lớn, nó mở ra cho tất cả các hàng tu một cơ hội để hiểu biết thọ trì. Nhưng trước đó không có ai biết cả, cũng không có ai hiểu; chỉ có ông Văn Thù mới biết được thôi. Thì cái lời lẽ Văn Thù này đã tới lúc nên biết; bốn chúng đều nên biết, các quan thần cho đến tất cả chúng sanh cũng đều nên biết xem xét; mong được tu hiểu thì sẽ được nói ra cho mà nghe để tin hiểu thọ trì.
Lúc bấy giờ, ngài Văn-Thù Sư-Lợi nói với ngài Di-Lặc Đại Bồ-Tát cùng các vị Đại-sĩ:
Thì lúc bấy giờ là cái lúc mà người ta đang ngồi tu; ngài Văn Thù Sư Lợi mới nói với ngài Di Lặc Đại Bồ Tát là nói cho những người nào muốn tu mà thành Phật đạo, cũng giống như là ông Di Lặc sẽ thành Phật kế tiếp trong đời tới này vậy. Cùng các đại sĩ tức là những người có cái tâm lượng rộng lớn, sĩ là bậc quân tử trượng phu thì cũng đều được nghe cái lời này của ngài Văn Thù Sư Lợi.
"Các Thiện-nam-tử! Như chỗ tôi xét nghĩ thì nay đức Phật Thế-Tôn muốn nói pháp lớn, mưa pháp vũ lớn, thổi pháp loa lớn, đánh pháp cổ lớn và diễn pháp nghĩa lớn.
Thì bây giờ mình tu biết được như vậy thì từ cái chỗ tôi xét nghĩ này; thì nay Đức Phật Thế Tôn muốn nói pháp lớn. Thì Phật đạo đây chính là pháp lớn, mới làm cho mưa pháp vũ lớn nó tưới vào tâm can của mình để cho cái trí Phật nó thấm nhuần, nó có thể rưới khắp; tất cả các pháp nó đều nằm trong đây, ngay tại thế gian này.
Thổi pháp loa lớn tức là cái loa này nó vang rất là xa, làm cho ai cũng nghe thấy hết; nó vang xa khắp bốn biển, nó vang từ Ấn Độ qua tới Trung Hoa các nơi rồi nó về tới Việt Nam; rồi trong Việt Nam này nhiều nhà nhiều chùa; rồi nhiều người trong nhiều nước họ cũng đang thọ trì đọc tụng nghiên cứu kinh này.
Thì mỗi cái miệng cũng là một cái loa, có bao nhiêu người thì có bấy nhiêu cái loa; thì cái loa này lớn nhỏ gì nó cũng là một cái loa. Một ngồi đây tu thôi nhưng cái loa này nó vang lên tới tận trời xanh, từ cõi này qua cõi kia cũng đều nghe biết thì mới gọi thổi pháp loa lớn.
Cái pháp loa lớn đó người tu phải thổi lên, bốn chúng đồng thổi lên. Thổi lên rồi mới đánh pháp cổ lớn, tức là cái pháp cổ xưa cái ngôn từ cảnh giới này đã có rồi. Chư Phật chỉ bày biến lại cho mình xem nghe rồi tùy sức diễn pháp nghĩa lớn.
Thì cái quan trọng cuối cùng là phải diễn được cái nghĩa lớn; nghĩa lớn tức là cái nghĩa này nó bao trùm hết tất cả. Không có phân biệt, Thiền tông, Tịnh độ tông, Pháp hoa tông hay Hoa nghiêm tông gì cả. Hiểu được cái nghĩa lớn này rồi thì tất cả các nghĩa kinh lời lẽ giọng tiếng cũng đều thấy biết.
Các thiện-nam-tử! Ta từng ở nơi các đức Phật đời quá khứ thấy điềm lành này, Phật kia phóng hào quang đó rồi liền nói pháp lớn.
Tức là ở nơi các Đức Phật đời quá khứ đã qua thì giờ nay thấy cái điềm lành này; thì ai tu được rồi cũng sẽ thấy cái điềm lành này hết; cái trí Phật kia nó khai ra rồi liền nói pháp lớn.
Pháp lớn thì thì cái tâm lượng càng lớn thì càng nhận được nhiều cái pháp lớn vi diệu; cái tâm mà nhỏ hẹp thì cái pháp có lớn mấy đi chăng nữa mình nghe đó rồi thì cũng chỉ để nghe thôi mà lọt không vô thì không đi vào được pháp lớn. Nghe rồi thì phát cái ý chí lớn mạnh ra để thọ trì tu thì cái pháp lớn này nó mới hiển lộ.
Cho nên chắc biết rằng hôm nay đức Phật hiện hào quang cũng lại như vậy.
Thấy được hôm nay Đức Phật hiện hào quang chưa?
Thì hôm nay đây là ngay bây giờ nè; từ đó tới giờ mình tu cho tới ngày hôm nay mình có bao giờ thấy được cái hào quang hôm nay của Đức Phật nó như thế nào chưa.
Rồi tu vô thì sẽ thấy được, thấy được ngay trong hôm nay trong khi mình tu trì chứ không phải miêu tả phật pháp hào quang này cho riêng ai cả; ai tu được rồi cũng sẽ thấy.
Pháp này từ xa xưa tới ngay bây giờ cũng đều là như vậy; mà không tu tức là không thấy được như vậy, tu vô được rồi mới thấy là như vậy.
Phật vì muốn cho chúng sanh đều được nghe biết pháp mầu mà tất cả trong đời khó tin theo, cho nên hiện điềm lành này.
Thì pháp này Phật đều có thể trao cho bất cứ một ai chứ không đợi căn cơ cao thấp nào hết; ai vô tu rồi cũng được, chỉ cần chịu tu chịu học thì Phật cũng đều trao cho hết.
Thì bây giờ mình là chúng sanh mình nghe biết rồi, trên nghĩa lý là thấy nó thâm sâu vi diệu rồi nhưng chưa tu thử chưa biết; chưa biết cho nên pháp này tất cả trong đời khó tin theo.
Tức là mình còn cái tâm đời nhiều, cái lòng phàm cũng nhiều; không có chịu ngồi nghe tìm hiểu cho kỹ; chưa chi là đã phủi tay bỏ đi rồi thì sẽ không tin được.
Cho nên có những người tâm họ quá đời phàm thì họ sẽ không có chịu tin nghe, người đời không nghe thì người đạo mới nghe. Cho nên nếu mình còn tâm đời nhiều mà mình cũng chịu phát tâm miên mật tu thử, thì Phật cũng sẽ hiện cái điềm lành này cho mình thấy thì từ đời tới đạo nó cũng như trong khoảng sát na chứ không lâu.
Các thiện-nam-tử! Như vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp về trước.
Cái thời gian này là không có hạn lượng được, không có giới hạn nào hết. A tăng kỳ kiếp là một đại kiếp, từ cái đại kiếp này từ lúc bắt đầu rồi nó cứ tăng dần lên trải qua rất nhiều thời kỳ; những thời kỳ này nếu nói ra thì nói không xuể, cho nên gọi là a tăng kỳ kiếp.
Mà kiếp này không phải là nói kiếp người không thôi; kiếp này là nói cái kiếp của một thời kỳ.
Ví dụ trái đất mình có một tỉ năm; nhưng mà cái thời kỳ mà con người mình chỉ thấy biết được có năm bảy ngàn năm nay thôi; trước đó rất là ít người hay nhiều người mình chưa có tư liệu để nghiên cứu, bao nhiêu thời kỳ trải qua để hình thành cho đến được như bây giờ mình cũng không biết.
Thì sanh ra ở trên đời này thì mỗi người cũng có một kiếp người là mấy chục năm cho đến trăm năm; thì từ đó tới giờ cái số người nó cứ tăng dần, rồi cái kiến thức lần lần nó cũng phong phú hơn, trước đó rất lạc hậu.
Thì mình phải biết rằng con người sinh ra ngay trong thế giới này thì mắt thường không thể nào mà hạn lượng đong đếm được các kiếp đó nó trải qua như thế nào, cho nên được gọi là vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp về trước.
Bấy giờ có đức Phật hiệu Nhật-Nguyệt Đăng-Minh Như-Lai, Ứng-cúng, Chính-biến-tri, Minh-hạnh-túc, Thiện thệ, Thế-gian-giải, Vô-thượng-sĩ, Điều ngự Trượng-phu, Thiên-Nhân-Sư, Phật Thế-Tôn, diễn nói chánh pháp.
Bấy giờ có Đức Phật hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh Như Lai tức là cái vị này là cái vị tạo ra nhật nguyệt trời đất, tạo ra sự sống ánh sáng cho trời đất; thì chỗ này rất là sâu vi diệu, khó tin khó hiểu vô cùng. Nếu không có được cái trí lực của Nhật Nguyệt Đăng Minh này thì không bao giờ hiểu nổi; chỉ nghe rồi tin hoặc không tin thôi chứ rất khó nắm bắt. Bởi vì ở đây không phải là cái chỗ của người tu bình thường hay khoa học nào có thể nghĩ tưởng tới nổi.
Thì bây giờ mình hỏi trước đó thời gian xa xôi như vậy; thậm chí là lúc mà chưa có trái đất này thì có chúng sanh trước hay có Phật trước.
Từ đâu mà có con người, rồi có trái đất bầu không khí, rồi vạn vật đều đang ở nơi đây; nếu không có thần lực gia trì của một đấng nào đó thì liệu nó có trụ vững được không. Cho nên trong Kinh Đại Bảo Tích có một bài kệ:
Tất cả cõi đại địa
Dù bằng chất kim cang
Nếu không dùng gia trì
Thảy đều nghiêng úp cả.
Thì đây có thể là đang nói đến một Đấng Tạo Hóa nào đó mà chúng sanh đang tin tưởng vào, đấng này có đang gia trì cho cái các cõi này.
Bây giờ mình tin có Đấng Tạo Hóa không?
Ví dụ như bên Ấn Độ đạo Bà la môn người ta tin có Đấng Thánh Chúa Vish-nu hóa ra ba vị thần, mỗi vị có một trọng trách khác nhau nhưng rốt cuộc cũng đồng một thể tánh. Hay đạo Tiên của Trung Quốc họ cũng đều tin có Đấng Tạo Hóa, nhưng sự tích thì mỗi nơi đạo mỗi khác.
Rồi bên người Do Thái, người Hồi Giáo, Thiên chúa giáo họ có tin vào Đấng Tạo Hóa là Thánh Allah; Allah có nghĩa là vị trời đầu tiên. Rồi mỗi nơi có một truyền thuyết hình ảnh tên gọi nào đó mà con người ta tin vào họ tôn thờ.
Thì ở đây khi nhìn sâu vào sự thật của thánh đạo rồi thì những vị này cũng đồng một pháp giới; pháp giới này chúng sanh không thể thấy biết, thậm chí người tu đắc được thánh quả cũng không am hiểu hết. Bởi vì trí tuệ thuần thục và kho tàng của chư Phật là vô lượng nhưng chưa đến lúc khai bày mở ra; nay đã đến lúc tuyên bày.
Thì lúc đây, là ngay trong thời đại công nghệ này đây; chuẩn bị cả trăm ngàn năm đến nay mới phơi bày cho các hàng tu, các đạo, mọi căn cơ chủng tánh mà không có phân biệt cao thấp. Nói vậy có nghĩa là người tu theo đạo nào tu theo pháp này cũng được cả; ai theo Chúa cứ tôn thờ Chúa, thấy được sự mặc khả của Chúa từ hơn hai ngàn năm trước.
Rồi ai theo Phật tu theo Phật nhớ đến hai hàng nước mắt và nụ cười của Long Thọ; tức là ông Di Lặc.
Ai theo Ấn Độ Bà La Môn thì nhớ đến hóa thân thứ mười. Nhất là ông Cao Đài tu theo Cao Đài cũng phải trụ học hỏi pháp này; ông đã dứt được tâm phân biệt rồi thì phải dứt cho hết; tất cả các đạo cũng đều như thế. Cứ giữ đúng cái đạo của mình mà trụ trong pháp này; đã đến lúc rồi thì Chúa cũng như Phật, cứ nhận pháp thọ trì đọc tụng giải nghĩa kinh; rồi thấy biết phân biệt tất cả nghĩa lý cảnh giới để hiểu được nỗi lòng của Đấng Chủ Quản Càn Khôn.
Không bắt ai phải bỏ đạo của mình cả; tất cả các pháp đều là phương tiện để tu. Thì trí lớn của một Đấng Tối Thượng không bao giờ bị ràng buộc ngăn cách bởi các đạo; ai hiểu được như vậy thì đó mới thật sự là một người tôn thờ Đấng Tạo Hóa, Đấng Chúa Tể Càn Khôn; hoặc Đấng Như Lai.
Thì bây giờ trong kinh này có Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh Như Lai đầy đủ mười hiệu này cũng như vậy.
Một Đức Phật trong tiền kiếp quá khứ xa xôi thì chắc hẳn phải ra đời trước cái quả đất này; rồi cũng biết được cái quả đất này nó hình thành ra làm sao; ai đang cai quản, cai quản như thế nào thì vị này cũng đều thấy biết đúng như thật.
Quan trọng là chỗ này chúng ta có tin nổi hay không thôi; bởi vì nói ở chỗ này là con người có muốn với cũng không với tới nổi. Chỉ cần nghe và ghi nhận trước thôi là được rồi; lúc nào tu vô được rồi thì kiểm chứng bằng tâm linh.
Rồi tiếp nữa mình thấy Đức Phật Nhật nguyệt Đăng Minh này có cái gì nữa.
Có đủ mười hiệu; đầy đủ mười hiệu thì mười hiệu này thì hiệu Như Lai là cái hiệu đầu tiên. Như Lai tức là bậc dường như có thể biết về được mọi thứ sẽ đến. Bởi vì sao?
Bởi vì người tạo lập ra thế gian mà không biết thế gian sẽ đi về đâu thì không còn ai biết nữa; không có gì luận bàn, kinh sách cũng vô nghĩa.
Thứ hai là bậc Ứng-cúng; tức là diệu ứng được cái thần lực của hư không mới hóa hiện được vô số cái cảnh đời. Cái bậc mà xứng đáng được cung kính cúng dường.
Nhờ đâu mà mình được cái thân này, cõi nước quốc độ này?
Thì cũng đều nhờ thần lực ứng cúng này; cung ứng cho đời, ứng cúng mới ra vô số các cõi giới cho chúng sanh; tất cả các quỷ thần, chư thiên cho đến bồ tát cũng đều nương vào mỗi cảnh giới mà có chỗ nương trụ vào thì cũng đều nhờ sức hộ niệm của bậc Ứng cúng.
Thì từ chỗ bậc Ứng cúng được cái lực trong hư không mới tạo ra được các cảnh giới vũ trụ rồi mới Chính-biến-tri; tức là biết tất cả một cách chính xác, biến hóa ra được tất cả.
Biến hóa ra rồi thì vị này là đủ Minh-hạnh-túc tức là tất cả các hạnh đều đầy đủ; các hạnh đầy đủ thì coi ngó âm thầm làm việc một cách Thiện-thệ, tức là tất cả đều rất nhuần nhuyễn sâu dày, quá rõ biết tất cả các thiện trên đời.
Biến rõ được như vậy thì mới vì Thế-gian-giải, tức là giải bày ra được cho chúng sanh thấy biết; vì thế gian mà giải bày các pháp giới.
Giải được như vậy mới gọi là Vô-thượng-sĩ tức là bậc vô thượng trong thế gian, trong đời không ai hơn.
Không ai hơn này thì mới có thể Điều-ngự trượng-phu; tức là điều ngự được tất cả các hàng trượng phu; sanh diệt của thế gian đều có thể ngự nơi đó mà điều tiết tất cả.
Điều tiết được tất cả mới gọi là Thiên-nhơn-sư; tức là thầy của tất cả các hàng trời và người, tất cả đều là con của bậc Thiên nhơn sư.
Thì Thiên-nhơn-sư này trời người thế gian đều tôn; tức là cung kính tôn kính như một vị cha lành, là bậc tôn quý thì gọi là Phật Thế Tôn.
Ban đầu, giữa, rốt sau ba chặng đều lành, nghĩa lý rất sâu xa, lời lẽ khéo mầu, thuần một không tạp, đầy đủ cả tướng phạm hạnh thanh bạch.
Thì Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh này diễn nói chánh pháp ban đầu, giữa, rốt sau rốt ráo ba chặng đều lành.
Chỗ này rất là sâu; thì bây giờ phải hiểu theo từng nghĩa, và có nhiều lớp nghĩa.
Thì cái chặng thứ nhất chúng ta biết rằng Đức Thích Ca Mâu Ni Phật ra đời cách đây khoảng hơn hai ngàn năm trăm năm; trước đó mấy ngàn năm nữa thì chưa có Phật này ra đời.
Thì Đức Nhật Nguyệt Đăng Minh này phải nói cái chặng ban đầu trước.
Thì đây trong kinh lưu lại trước khi Đức Thích Ca Mâu Ni Phật chào đời xuống thế gian thì có một vị Tiên nhơn tên là A Tư Đà mới tới tiên tri rằng thái tử Tất Đạt Đa một là vua Chuyển luân thánh vương, hai là đi xuất gia trở thành bậc giác ngộ tối thượng.
Thì ngay chỗ này, trước lúc Phật Thích Ca chào đời trước đó gọi là chặng ban đầu.
Thì trước đó chưa có đạo Phật; chỉ có đạo Hin-đu Bà la môn bây giờ người ta gọi là Ấn Độ giáo.
Thì bên Bà la môn họ tôn thờ ba vị Chúa tể lớn chính là: Na La Diên Thiên, Đại Tự Tại Thiên, Phạm Thiên. Ngoài ba vị này ra có các vị Thiên Mẫu, Chư Thiên, các thần cai quản, thần chánh thần tà, hung thần thiện thần đều có ... rất nhiều những vị thần như thế. Rồi họ có những câu truyện về các vị thần cũng ẩn chứa nhiều cảnh giới tu, sự vận hành của pháp thân trong những câu truyện đó; mật nghĩa trong đó nhiều vô số.
Thì nói đến chỗ này để chúng ta thấy rằng: Trước khi Phật ra đời là đã có đạo rồi, nhưng cái đạo này là cái chặng ban đầu; phải có cái chặng ban đầu này thì Đức Phật Thích Ca ra đời thị hiện nói pháp chúng sanh mới hiểu, các hàng tu mới hiểu.
Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh thị hiện hóa hiện ra những hình thức khác nhau trong hình thức của các đạo để mà phương tiện nói pháp trong cái chặng ban đầu này.
Thì cái đạo Bà la môn này họ có một cái nền văn minh đạo đức, họ có những cái lời lẽ âm thanh vi diệu gọi là tiếng Phạm âm; đây là một cái ngôn ngữ cổ xưa, có một hệ thống kinh điển đồ sộ của họ; tất cả các pháp ban đầu cũng đều nằm trong đó vẫn lưu truyền cho đến bây giờ. Thì Đức Phật cũng nương nơi cái tiếng Phạm âm này mà nói pháp; mà muốn nói pháp thì tất cả các ngôn từ phải đầy đủ, tất cả các tướng pháp cũng phải đầy đủ.
Thì tiếng Phạm âm này là cái ngôn ngữ ban đầu từ Phật đạo đưa xuống và nó đủ điều kiện để đáp ứng cho tới lúc nói pháp tới chặng thứ hai tức là lúc Đức Thích Ca Mâu Ni Phật ra đời.
Rồi song hành như thế cái chặng thứ nhất này bên phía Trung Quốc, Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh này cũng chủ trì một cái giống dân khác mới lập những đạo bên này. Thì từ thời Hồng Quân Lão Tổ, Bàn Cổ khai thiên lập địa cho đến lúc Nữ Oa vá trời, Tam hoàng ngũ đế, Ân Thương Chu Tần; cho đến các lộ chư hầu, lục quốc tranh hùng; Đông chu liệt quốc, Xuân thu chiến quốc. Những thời này bên đó cũng gần tương đương với mười tám đời vua Hùng Vương bên Việt Nam.
Rồi Lão tử, Khổng tử cũng xuất hiện; một bên trụ tướng Tiên đạo, một bên lấy Nho giáo đạo quân thần, đạo người quân tử, đạo vợ chồng, đạo hiếu; rồi học phép tắc nghi lễ tứ thư ngũ kinh. Thì tùy ở chỗ nào cần có phương tiện gì thì Phật đạo cũng đưa xuống để đáp ứng đầy đủ tất cả các pháp.
Thì Phật đạo cũng xuống mở đạo ngay đây nhưng không có lấy tên là đạo Phật mà lấy tên là Tiên đạo; vì mỗi quốc độ tùy theo căn cơ chủng tánh mà có sự chuẩn bị khác nhau, ngôn ngữ âm thanh giọng tiếng; trang phục văn hóa đều có chỗ khác.
Rồi trải qua nhiều thời kỳ, các ngôn ngữ chữ viết mỗi nơi mỗi khác cho đến lúc đưa ông Tần Thủy Hoàng xuống thống nhất các lộ chư hầu, đồng thời cũng thống nhất đồng bộ chữ viết. Rồi hết thời ông này qua đến thời Hán Sở tranh hùng... Thôi, giờ nói miết như vậy không biết nói khi nào mới hết.
Bởi vì chỗ này rất sâu, rất ly kỳ; sâu ở chỗ tất cả những cái dòng lịch sử của thế giới này đều có một cái bàn tay nào đó âm thầm điều tiết chi phối trong đó mà không ai tưởng ra nổi.
Thì ở bên Ấn Độ cho đến một thời kỳ nào đó mới lại có một số vị mới đi truyền đạo qua bên phía Trung Quốc.
Điển hình là từ thời nhà Lương là Phật đạo chuẩn bị một ông vua tên là Lương Vũ Đế ổng chờ sẵn ở đó ổng hộ Phật đạo; rồi song hành với ổng cũng có một số vị cao tăng đắc đạo họ cũng đến họ hỗ trợ cho ổng.
Rồi bên phía giống dân phương Tây cũng cho xuất hiện một người gọi là Chúa Jesus tạo ra một đạo mới để phù hợp với căn tánh của chúng sanh lúc đó; cũng gởi xuống mười hai tông đồ, rồi có một tông đồ làm phản đến khi Chúa chuộc tội gì đó trên cây thánh giá; rồi sau này chính cái ông làm phản bắt bớ Chúa lại quay ra ủng hộ loan tin cho Chúa. Thì ở đây ta thấy có một lịch sử một chuỗi sự kiện rất ly kỳ trong cuộc đời của vị Chúa này; rồi cũng có những phép mầu mà người đời sau tin rằng nó tồn tại và lưu lại.
Rồi phía bên này tới ngày tới giờ ông Bồ Đề Đạt Ma ổng cầm y bát của Phật từ bên Ấn Độ ổng qua bên phía Trung Hoa này để ổng tìm người truyền y bát; rồi ổng diện bích không nhúc nhích trong chín năm nên dân chúng các hàng vua quan họ thấy ly kỳ họ càng tin; rồi cho đến khi tổ Huệ Khả xuất hiện lên tới Huệ Năng đời nhà Đường để nhục thân xá lợi để Phật đạo được xiển dương rực rỡ. Rồi thời nhà Đường này có ông Đường Tam Tạng xuất hiện đi thỉnh chân kinh bên Ấn độ về, các kinh pháp được dịch truyền rộng rãi phổ biến khắp mọi nơi.
Thì đây cái chặng thứ hai tức là chặng giữa này Phật đạo cũng chuẩn bị rất kỹ càng; một đội ngũ các hàng Bồ tát luôn luôn trong tư thế sẵn sàng.
Thì nếu mà muốn hiểu một phần nào của chặng giữa thứ hai này, thực sự sẽ phải nghiên cứu vài ba thập kỷ là ít chứ không phải vài hôm.
Nhưng ở đây tôi nói tóm tắt cho dễ nắm bắt; để thấy được rằng cái thế gian này nó đều cùng là một nguồn gốc chứ không phải nhiều nguồn gốc.
Bởi vì sao?
Bởi vì như thế mới gọi là Vô Lượng Nghĩa Xứ giáo Bồ tát pháp Phật sở hộ niệm.
Thì vô lượng nghĩa xứ này là nhiều xứ chứ không phải nói riêng cho một xứ nào hết. Đây là mới nói đến bên Ấn Độ với Trung Quốc thôi; còn bên các nước của người Do Thái, các nước Ba tư, các nước Châu Âu thì Phật đạo cũng đều xuống cả; nhưng mỗi nơi lại mở một cái đạo khác nhau, rồi mỗi nước mỗi non lại có một cách thức thể hiện khác nhau; tùy thuận theo căn cơ của chúng sanh.
Giờ nói đến chặng rốt sau là từ bây giờ trở đi.
Cái chặng này là người ta thấy khó nhất; nhưng khó mấy thì khó, Phật đạo đã chuẩn bị mấy ngàn năm nay cũng chỉ là đợi đến cái chặng cuối này.
Chặng cuối này mới là cái chặng sống còn, trận cuối này mới là cái trận vinh quang nhất, tốt đẹp hi hữu nhất; giờ hãy cứ tạm thời nghe như vậy đi, biết như vậy là được rồi.
Vì đây là cái nghĩa lý rất sâu xa, lời lẽ khéo mầu, thuần một không tạp, đầy đủ cả tướng phạm hạnh thanh bạch.
Bây giờ tôi chỉ ngồi tôi nói đây thôi chứ tôi chưa làm được gì cả; bởi vì cái chặng này nó mới chuẩn bị bắt đầu thôi, sắp tới là sẽ chuẩn bị một sự kiện lớn của quốc độ này; chúng sanh phải hiện tướng bồ đề thì vạn Phật mới triều tôn.
Rồi khi nào cái chặng này bắt đầu tức là phải có bậc Thánh nhân xuất thế. Mà mượn tướng bậc Thánh nhân xuất đầu lộ diện ngay trong thời kỳ này cũng sẽ thất bại; có nhiều cái hạng người họ xưng thần xưng quỷ, xưng hùng xưng bá cũng rất nhiều, vậy rồi cũng có nhiều người theo; cho nên trong cái trận này nó ly kỳ lắm, bậc này trước hết là phải giống như là một nhà lập trình công nghệ cao vậy; mọi thứ phải được chuẩn bị chu đáo; mà nó cũng nhiều gai góc lắm.
Rồi tới chỗ: Cái thuần một không tạp này là cái để tất cả chúng sanh được xích lại gần với đạo, tất các các đạo cũng xích lại với nhau; khi đó cái tướng đời nó cũng thuần với cái tướng đạo gọi là thuần một không tạp.
Mà bây giờ: Đời không ra đời, mà đạo cũng không ra đạo thì sao gọi là thuần một không tạp; đạo này phân biệt, đạo kia phân biệt thì chưa phải là thuần một không tạp.
Thì đây là một con đường mà trong đó có các lời lẽ đều khéo mầu, thuần một không tạp, đầy đủ cả tướng phạm hạnh thanh bạch.
Lời lẽ khéo mầu là cái lời lẽ của tâm ý nó phải khéo léo, luật đời luật đạo đều nghiêm minh chấp hành, cái lẽ sống nó chan hòa; mọi người đồng lòng thuần một cảnh giới vui vẻ tươi mát không có những tính chất tạp nhạp; người phàm sống với nhau trong cái phạm nào đi nữa thì cũng từ chỗ đó mà tìm ra cho đầy đủ cái tướng trắng sạch thanh bạch; bạch nó ra, lôi nó ra ánh sáng bằng những cái từ ngữ tâm ý trong sáng.
Thì cái tướng thanh bạch này là cái nghĩa tướng, cái nghĩa tướng mình phải đi vào đó mình tìm hiểu cái tướng pháp nơi tất cả thế gian; tất cả các đạo lộ, thì nó mới lộ ra cái đường lối phương tiện nhân duyên ra làm sao thì mới gọi là đầy đủ cả tướng phạm hạnh thanh bạch.
Thì tất cả các pháp phân biệt đều có đó luôn hỗ trợ cho nhau, giờ ai muốn tu học thọ trì thì tự tìm hiểu quyết định mọi thứ đã có sẵn đó.
Phật, vì người cầu đạo Thanh-văn, nói pháp Tứ-đế thoát khỏi sanh, già, bệnh, chết, cứu cánh Niết-bàn.
Khi mà đầy đủ tất cả tướng phạm hạnh thanh bạch rồi. Thì vì người cầu đạo Thanh-Văn nói pháp Tứ-đế thoát khỏi sanh, già, bệnh, chết, cứu cánh niết bàn.
Giờ tôi nói pháp ở đây là nói không phân biệt đây là tôn giáo nào cả; quan trọng là anh phải ngộ được cái lý giải thoát trong đó thì đạo nào cũng xong.
Thì người cầu đạo Thanh văn này là cái người nghe được cái lời lẽ âm thanh của sanh lão bệnh tử, vô thường mỗi phút mỗi giây trôi qua mình có thể bệnh chết bất cứ lúc nào; thì trong bốn đế mình đã thấy được đế thứ nhất.
Rồi lúc này mình mới phát nguyện đi tìm cầu giải thoát; tìm đến nơi cửa đạo; thì cửa đạo này tướng thế gian gọi là tu viện chùa chiền am tự đến đó họ tạo điều kiện hỗ trợ cho đường tu của mình; rồi mình nghe giảng nói chánh pháp tu tập hành trì theo tức là đế thứ hai.
Khi hành trì theo mới ngộ nhận ra được con đường giải thoát, rồi mới diệt trừ được phiền não của thế tục; tâm lực trí đạo nó sáng ra tức diệt được vô minh là đế thứ ba. Diệt được tất cả các nguồn cội của vô minh thấy được cái tâm linh cảnh giới diệu mầu của tất cả các pháp gọi là đạo là đế thứ tư; là cứu cánh Niết Bàn.
Thì phải biết rằng tùy theo tâm lực căn cơ chủng tánh mà nói ba thừa để cho chúng sanh dễ hiểu thì tứ đế này cũng là Thanh-văn-thừa; cũng là Bồ-tát-thừa, cũng là Phật-thừa; nhưng vì phương tiện cho nên phân biệt nói ba thừa, chứ kỳ thực chỉ có một thừa pháp, không hai cũng không ba; đó là Phật thừa; thừa kế cái quả vị Phật, cũng gọi là cứu cánh Niết Bàn. Nhưng đây phải nói là cái chỗ rốt ráo Thanh văn thừa thật sự thì mới gọi là Phật thừa.
Thanh văn cũng chia ra nhiều hạng; bởi vì sao; kinh đã mô tả rồi đây:
Lại thấy có bồ tát
Mà hiện làm Tỳ kheo
Theo tướng thế gian thường trụ thì tỳ kheo là tu theo Thanh văn thừa, thọ trai giới trì pháp tạng. Thì những vị tỳ kheo này nếu tu Bắc tông họ cũng ưa hiểu thọ trì đọc tụng kinh pháp Đại thừa chứ có phải học Tứ diệu đế không đâu; cho nên cái pháp Đại thừa bắt buộc phải hỗ trợ cho Thanh văn thừa, mà chí ít trụ được Thanh văn thừa mới đi vào các thừa khác được.
Vì hạng cầu quả Duyên-giác, nói pháp Mười hai-nhân-duyên,
Quả Duyên-giác này tạm thời chia ra làm hai hạng.
Hạng thứ nhất là họ tu giữa đại chúng thời có pháp Phật thường trụ tại thế; họ thiền định hiểu biết được tất cả các pháp là do duyên sanh, rồi họ diệt trừ được tất cả các duyên vô minh cho đến rốt ráo Duyên Giác thừa.
Hạng thứ hai là không biết Phật đạo là đạo gì cả, họ không có dịp được tiếp xúc với thời kỳ khai pháp trong kinh điển. Mà họ tự ngộ ra được con đường tu, chán bỏ thế tục tìm về tâm linh; giống như là người tu tiên vậy, họ xa lánh thế tục vào nơi sơn cùng thủy tận lập am cốc thanh tâm quả dục, cho đến lúc đắc đạo thành tiên thì cũng gọi là bậc Duyên giác; hay còn gọi là Độc giác Phật; đắc đạo rồi thì đời họ biết đến vị này có nhiều thần lực gọi là bậc Tiên nhân; họ xuống núi hành đạo gọi là Bồ tát đạo nhưng họ không biết mình đang hành Bồ tát đạo. Rồi có những vị họ chỉ ở trong núi thôi cho đến chết sanh về cõi nước thiền định của họ thì chỉ gọi là bậc Duyên Giác, chứ chưa phải là bậc Duyên Giác Bồ tát đạo.
Thì vì hạng cầu quả Duyên giác nói pháp mười hai nhơn duyên; thì Phật cũng thị hiện trong một hình thức nào đó của tâm linh chứ chưa hẳn là hiện trong thân xác thịt của con người, hiện ra những cái cảnh giới hộ niệm trong tâm linh dắt dẫn họ.
Thì chỗ này nói cho hết rõ nghĩa thì cũng tốn rất nhiều thời gian.
Vì hàng Bồ-Tát nói sáu pháp Ba-la-mật làm cho chứng được quả vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác thành bậc nhứt- thiết chủng trí.
Hàng Bồ tát này là những người có cái tinh thần vì chúng sanh; khi họ vô ngồi tu đạo có cái tâm pháp của Bồ tát đạo họ muốn tìm cầu thì bày cho họ sáu pháp ba la mật. Sáu pháp ba la mật này rất là sâu rộng, có thể đến được cái chỗ của Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thành bậc Nhất thiết chủng trí.
Sáu pháp ba la mật đó là:
Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ.
Thì ba la mật tức là ba nghiệp thân khẩu ý nó có cái bí mật để giải thoát cái nội tâm; thì cái sáu pháp này nó cũng tượng trưng cho sáu căn cũng đều nhiếp sáu pháp để mà bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ.
Ví dụ đầu tiên là nói về sáu căn nhiếp pháp bố thí thì ba nghiệp nó cũng đi theo; thì cái nghĩa bố thí này phải đủ nghĩa của bố thí giải thoát mới gọi là ba la mật; tức là ba nghiệp thân khẩu ý nó có những bí mật trong đó, mình phải khai bày ra.
Bố thí này không phải chỉ có nghĩa là cho đi không thôi; đủ nghĩa của nó là phải đủ hai pháp cho và nhận; thí ba la mật cũng có nghĩa là nhận ba la mật; nhận để mà cho thì cho và nhận không khác.
Ví dụ có người tới cần mình giúp đỡ dìu dắt họ trên con đường tu và họ chịu nghe mình; chịu nghe mình thì mình phải lo cho họ, mà lo cho họ thì phải chấp nhận được họ; họ tốt xấu gì chưa kể nhưng mình nhận ra họ cũng có phật tánh cho nên phải dùng cái cách gì để cho cái phật tánh của họ nó sáng ra. Thì trước hết là phải ban bố được một cái ý tốt lành trước, chứ không phải là lợi dụng thu nhận họ để sai khiến.
Thì chính mình hướng dẫn người khác đi vào chánh đạo thì cũng gọi là bố thí, nhiếp sáu căn vận dụng đầu óc ai có duyên lành thiện căn thì giúp cho họ phát triển được con đường tu đạo. Mà muốn giúp cho họ được thì mình phải trì được giới pháp gọi là trì giới; nếu mình không có hành trì tốt rồi họ thấy mình bê bối quá mình tu không giữ đúng đủ thanh quy, tham sân si đầy dãy không có khí chất giải thoát nào họ sanh nghi hoặc thối chuyển thì chưa thể bố thí và trì giới ba la mật được.
Thì bây giờ muốn bố thí ba la mật, khai ra cái mật bố thí của Bồ tát thì buộc anh phải giới pháp trang nghiêm.
Giới pháp trang nghiêm rồi lúc này có những người họ đến gặp mình mà họ không tin hiểu phật pháp, hoặc họ không có hiểu chuyện; thì chính cái trì giới này nó giúp cho mình nhẫn nhục. Mà nhẫn nhục đây là phải nhẫn nại trước; người chửi mình, người ta gây khó dễ cho mình mà mình trì giới được rồi muốn bố thí pháp cho người ta, người ta họ không nghe thì mình phải nhẫn nại; tức là dù cho khó khăn mình vẫn tinh tấn, không phải vì nghe người ta nói mấy câu mà mình nổi sân nổi si mình ấm ức tức tối tức là chưa phải nhẫn nhục ba la mật.
Tinh tấn tức là cái tinh thần của mình nó luôn luôn tấn tới; dù mình có mệt mỏi nhưng cái tinh thần của mình nó vẫn luôn luôn hướng lên. Thì chính chỗ này mình nhẫn nại được, nhẫn nhục được rồi mình không có ham mê nữa, không có tranh đua, luôn luôn trong tinh thần tinh tấn và không còn khái niệm phải nhẫn nhục nữa. Tức là khi này đã thiền định được rồi thân tâm đều an lạc thì không còn phải nhẫn; lúc này là luôn luôn bình tĩnh, tâm luôn bình thường không có loạn động thì trụ được thiền định; trụ được thiền định thì có định lực, có định lực thì không có sợ hãi.
Từ nơi không có sợ hãi là do có đầy đủ cái năng lực trí huệ thì nó sanh ra thêm cái phương tiện ba la mật, rồi cộng với từ bi hỉ xả ba la mật thì được bát nhã ba la mật để hàng phục các chúng sanh một cách thuần thục thì đầy đủ thì không còn ba la mật nào nữa; tức là rốt ráo niết bàn trọn về nơi không. Không này tức là đầy đủ hết tất cả, không thiếu sót cũng không thừa thãi tức viên mãn Bồ tát đạo; viên mãn Bồ tát đạo thì đến được Phật đạo.
Thì chỉ cần thực hành rốt ráo được sáu pháp ba la mật này thì đã là một bậc đạo sư rồi; tới chỗ này là làm cho chứng được quả Vô thượng chánh đẳng chánh giác tức là thấy biết các pháp chánh một cách bình đẳng, rồi thành bậc Nhất thiết chủng trí. Nhất thiết chủng trí tức là biết tất cả các loại trí; rồi ba nghiệp trang nghiêm, sáu căn được thu nhiếp được tròn đầy thì thành tựu được pháp thân của hàng Bồ tát.
Kế lại có đức Phật cũng hiệu Nhật Nguyệt Đăng-Minh, lại có đức Phật cũng hiệu Nhật-Nguyệt Đăng-Minh. Như thế đến hai muôn đức Phật đều đồng một tên, hiệu Nhật-Nguyệt Đăng Minh, lại cùng đồng cùng một họ, họ Phả-La-Đọa.
Chỗ này cũng rất là thâm sâu; nhưng đối với chúng sanh thì rất là mơ hồ; bởi vì đây là bí mật của cơ tạo hóa. Bí mật này được giấu kín trong kinh này chưa từng bày nói, nay mới lược nói ra.
Di-Lặc nên biết! Đức Phật trước, đức Phật sau đều đồng một tên, hiệu Nhật Nguyệt Đăng-Minh, đầy đủ mười hiệu, những pháp được nói ra, đầu, giữa, sau đều lành.
Kế lại Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh này, rồi lại có Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh tức là hai ông này ổng truyền ngôi cho nhau, mấy ổng coi ngó cai quản trời đất. Cũng giống như ông vua cai quản gọi là Nhật Nguyệt Đăng Minh, cũng có nghĩa là ngọn đèn soi sáng trời đất; thì cái lý này cũng như vậy. Như thời phong kiến trong cõi nước dân gian thì cha truyền ngôi cho con, còn bây giờ là bầu cử; đây là theo nghĩa thế gian.
Thì cũng giống như Đức Thích Ca Mâu Ni Phật như thật thọ ký cho ông Di Lặc Bồ Tát kế đây sẽ thành Phật hiệu Là Di Lặc Tôn Phật vậy đó. Tuy là cái tên là Di Lặc, nhưng cái hiệu nó vẫn là Nhật Nguyệt Đăng Minh.
Ở chỗ này chúng sanh hay mình tu chấp vô tên tuổi thông thường thì sẽ không bao giờ thấy được cái nghĩa lý gì trong này.
Cho đến hai muôn đức Phật đều đồng một tên là chỉ có hai vị này thay phiên truyền cái trí Nhật Nguyệt Đăng Minh này cho nhau thôi; tức là cái tên này là tên giải thoát, tên Phật đạo, hiệu là Nhật Nguyệt Đăng Minh.
Rồi tiếp tục lại cùng đồng một họ, tức là một dòng pháp với nhau; nhưng vị này làm đủ rồi thì tới lúc sẽ có vị khác lên thay.
Họ là Phả-la-đọa, tức cái dòng này nó giống như là một cái phả danh sách giống như là gia phả của một dòng họ nào đó ở thế gian vậy đó.
Kế tiếp có Đức Phật Di Lặc này sẽ ra đời tức là ổng phải xuống cái chỗ đang có nhiều sự rên la buồn vui đầy đọa này, rồi ổng tiếp tục thay mặt cai quản dạy cho Phật đạo ở cõi này.
Đức Phật rốt sau cả, lúc chưa xuất-gia có tám vị vương- tử: Người thứ nhất tên Hữu-Ý, thứ hai tên Thiện-Ý, thứ ba tên Vô-Lượng-Ý, thứ tư tên Bửu-Ý, thứ năm tên Tăng-Ý, thứ sáu tên Trừ-Nghi-Ý, thứ bảy Hưởng-Ý, thứ tám tên Pháp-Ý.
Đức phật rốt sau cả này ám chỉ ở đây là ông Phật Di Lặc ổng sẽ sắp thành Phật rồi; ổng đã được thọ ký rồi, ổng được cho làm lãnh đạo để ổng quen lần với địa vị Phật đạo rồi.
Thì lúc chưa xuất gia có tám vị vương tử. Tức là từ lúc được thọ ký cho tới lúc ổng thành được cái ngôi vị này, ông thành rồi tức là ông bỏ cái nhà Bồ tát ông mang danh Phật đạo đầy đủ mười hiệu tức gọi là xuất gia.
Lúc chưa xuất gia có tám vị vương tử.
Thứ nhất tên Hữu-ý; tức là có ý, có cái ý hi hữu, ý tốt cũng gọi là hữu; cái ý này mới đến cái ý thứ hai là Thiện-ý tức là có tất cả cái ý thiện lành; thì thứ ba tên Vô-Lượng-Ý như thế kết lại thành cái Bửu-Ý, cái Bửu-Ý này nó lại được tăng trưởng lên gọi là Tăng-Ý; tăng ý này lên nó trừ được tất mọi mọi cái ý nghi nan phỏng đoán là Trừ-Nghi-Ý. Trừ nghi ý rồi mới hưởng được ý giải bày này Hưởng-Ý mới thành tựu được một cái Pháp-ý.
Tám vị vương- tử đó có uy đức tự tại đều lãnh trị bốn châu thiên hạ.
Thì vị Di Lặc có tám vị vương tử Ý này; cũng giống như là ý thức của tám thức của ổng đang trụ ở bậc Bồ tát đó đều có uy đức tự tại; đều lãnh trị bốn châu thiên hạ, tức là cái thân tứ đại đất nước gió lửa này đều lãnh trị cái thiên hạ này; mà thiên là cái tâm, hạ là cái thân; thiên hạ là cái thân tâm này trước. Thân, thọ, tâm, pháp nó nương vào đó để hành đạo thì cũng đều gọi là lãnh trị bốn châu thiên hạ.
Thì tám người con này cũng là từ một người cha mà ra; nhưng đây sở dĩ phải chia ra thành tám người con là để miêu tả một thứ lớp để nương vào tâm ý của người cha này đi đến chỗ trụ của một bậc Nhật Nguyệt Đăng Minh.
Nghe vua cha xuất gia chứng đạo Vô thượng chánh-đẳng chánh-giác đều bỏ ngôi vua cũng xuất gia theo, phát tâm Đại thừa, thường tu hạnh thanh tịnh, đều làm bậc pháp sư, thuở trước đã từng ở chỗ nghìn muôn đức Phật vun trồng các cội lành.
Thì tám người con này khi có được sự hiểu biết rốt ráo về Phật đạo rồi mới thấy nghe được người cha của mình xuất gia chứng đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì đều cũng bỏ ngôi vua cũng xuất gia theo.
Thì tám vị này là vương tử nhưng cũng ở ngôi vua mới có ngôi để bỏ, nhưng ngôi vua này không phải là cái ngôi vua ở trần gian này đâu; thì cái ngôi này là ngôi thứ, bỏ cái ngôi thứ cũ để ngồi vào một cái ngôi thứ giải thoát mới.
Nghe vua cha xuất gia chứng đạo Vô thượng chánh-đẳng chánh-giác đều bỏ ngôi vua cũng xuất gia theo tức là cái từ cái Hữu-Ý cho đến Pháp-Ý đã trang nghiêm được cái Phật đạo rồi thì cũng giải thoát theo, tức là xuất gia theo.
Thì từ chỗ này chứng được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác mới phát ra được cái tâm rộng lớn đại thừa, thường tu hạnh thanh tịnh tức là lúc nào cũng cũng thường được thanh tịnh; đều làm một bậc thầy về pháp. Thuở trước tức là từ lúc trở lui về lúc chưa thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì mới trụ ở đó thôi chứ chưa thành.
Từng ở chỗ muôn nghìn Đức Phật tức là ở cái chỗ hành Bồ tát đạo vun trồng các cội lành. Thì từ cái chỗ hành Bồ tát đạo này nên cũng là gần gũi được muôn nghìn các Đức Phật trong cái tướng tâm linh cũng là thật.
Đức Phật Nhật-Nguyệt Đăng-Minh lúc đó nói kinh Đại thừa tên "Vô-Lượng Nghĩa-Xứ" là pháp giáo hoá Bồ-Tát được chư Phật hộ niệm.
Thì Đức Phật Nhật Nguyệt Đang lúc đó nói kinh Đại thừa “Vô Lượng-Lượng Nghĩa-Xứ”.
Thì lúc đó là lúc nào?
Tức là lúc mà mới có âm thanh, các loại lời lẽ, các ngôn ngữ; rồi có sự xuất hiện hình thành của ngôn ngữ tiếng Phạn, qua tiếng Trung Quốc; rồi cũng chuẩn bị một loại ngôn ngữ cho Việt Nam lúc này gọi là Âu Lạc; tức là dòng giống dân tộc của Lạc Long Quân và Âu Cơ có được một nền dân chủ tiếp nối, thay đổi qua trăm ngàn thăng trầm để tồn tại; rồi mới lòi ra cái ngôn ngữ tiếng Việt cho đến bây giờ.
Thì chỗ này gọi là Vô Lượng Nghĩa Xứ; tức là cái nghĩa này nó nằm trong nhiều xứ sở bây giờ nó mới đến cái xứ Việt Nam mình.
Cho nên bây giờ hãy để ý thế giới này.
Tây Tạng là cái nơi mà người ta gọi là nóc nhà thế giới, cái đỉnh cao của Mật tông Mật giáo nó nằm nơi cao nhất, nơi mà đỉnh cao của Phật giáo đại diện nó cũng nằm ngay đây.
Thì ở đây có những núi tuyết nó tan chảy, rồi nó trôi xuống các nước hộ Phật đạo như là My-an-mar, Thái Lan, Lào, Cam-pu-chia; những nước này họ thuần là đất Phật, dân chúng đều tin Phật, uống nước từ trên đó chảy về; rồi cuối cùng nó mới chảy về Việt nam; lúc này nó tự động chia thành chín nhánh sông Cửu Long tức là chín con rồng tượng trưng cho chín bộ pháp, sáu căn cộng với ba nghiệp là chín bộ pháp.
Rồi bây giờ mình thấy rằng Việt Nam mình cũng lại hấp thu nhiều đạo, nhiều tôn giáo khác nhau. Nào Thiên chúa, Tin lành; rồi Phật giáo, Bắc tông, Nam tông, Thiền tông, Mật tông; rồi có hệ phái khất sĩ, Hòa Hảo, Cao Đài, tu Tiên Lão giáo, Nho v.v... rồi nào là bà này, ông kia chưa kể hết.
Người Việt Nam mình cái gì cũng chuộng hết, chia ra tùm lum; đại đa số các pháp đều đang nằm ở Việt Nam cũng rất nhiều.
Ấn Độ là chặng đầu, Trung quốc là chặng giữa, Việt Nam là chặng rốt sau tuyên bày rõ nói các pháp.
Thì chính chỗ này là cái chặng rốt sau, sẽ có một bậc nào đó sẽ ra đời xây dựng lại thế gian; diễn nói các pháp thanh tịnh ngay tại nơi đây giáo hóa
Bồ tát, được chư Phật hộ niệm; cả ba chặng đều lành.
Thì hiện giờ cái hộ niệm đã làm cho đủ pháp để phơi bày ra trước rồi; muốn hiểu hết nó thì bay vô ngồi nghiên cứu tu trì để thấy được cái chặng kỳ ba này là thật hay giả.
Nói kinh đó rồi, Phật liền ở trong đại chúng ngồi xếp bằng nhập vào cảnh chánh định "Vô-Lượng Nghĩa-Xứ", thân và tâm chẳng động.
Nói kinh đó rồi; tức là đã nói tất cả các kinh nghiệm đã kinh qua cho các vị nghe rồi đó. Thì ở giữa mọi người đây ngồi mà xếp bằng ra hết, trải ra hết tất cả các cảnh giới ở đời cho quý vị thấy biết; thì đây thực sự nó là từ trong chánh định nó nói ra cái Vô-Lượng Nghĩa-Xứ này mà thân và tâm không có bị loạn động tức là thân và tâm chẳng động.
Khi ấy trời mưa hoa Mạn-đà-la, hoa Ma-ha Mạn-đà-la, hoa Mạn-thù-sa cùng hoa Ma-ha Mạn-thù-sa để rải trên đức Phật và hàng đại-chúng.
Nghe rồi tin hiểu và trụ được cái Vô-Lượng Nghĩa-Xứ này rồi thì khi ấy trời mưa hoa Mạn-đà-la, tâm tư mình nó nở hoa; rồi nó có niềm vui lớn khi mình ngộ hiểu được các pháp này là hoa Ma-ha Mạn-đà-la.
Trời mưa hoa Mạn-thù-sa có nghĩa là thấy nó thù thắng; trời mưa Ma-ha Mạn-thù-sa là thấy nó rất thù thắng.
Các loại hoa này rải trên các Đức Phật và hàng đại chúng.
Đại chúng tức là tất cả công chúng nơi thế giới này mà nghe hiểu tin được Vô Lượng Nghĩa Xứ thì ví như các loại hoa này nó đều rải lên vậy.
Thì mình thấy ở đây nói lên rằng các Đức Phật cũng đang trông đợi ở nơi tất cả chúng sanh; cũng vất vả để vận hành làm cho ra được cái Vô Lượng Nghĩa Xứ.
Khắp cõi nước Phật sáu điệu vang động.
Khắp cõi nước Phật sáu điệu vang động tức là ngay cái cõi này đây những người đang được sự giáo hóa của Phật, như vậy cũng là đang ở trong cõi nước của Phật thọ trì tu theo các đạo pháp thì sáu căn đều vang động lên.
Lúc đó trong hội, hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, cận-sự nam, cận-sự nữ, trời, rồng, dạ-xoa, càn thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già, nhơn, phi-nhơn cùng các vị tiểu vương, các vị Chuyển-luân thánh-vương v.v... các đại chúng đó được điều chưa từng có, mừng rỡ chắp tay một lòng nhìn Phật.
Lúc đó trong hội là tất cả các hạng người trên được sinh trong pháp này là ngay tại lúc này đây; nghe tu thọ trì và thấy được cái nghĩa lý thâm sâu; khi thấy được rồi thì chính là ngay lúc này. Từ tâm của tỳ kheo, tỳ kheo ni; cho đến cận sự nam, cận sự nữ là những người nam và nữ thường hầu cận làm việc giúp cửa đạo; những hạng người có tâm trời rồng, dạ xoa, càn thát bà v.v... những tâm này đã giảng nói phía trên rồi cho nên không nói lại lần nữa.
Rồi tiếp tục cho đến các vị tiểu vương là những người có tu nhưng mà an phận nơi cái tâm nhỏ bé, chỉ làm việc bé; không có chí lớn nên được phân công việc nhỏ.
Rồi những vị Chuyển luân thánh vương; Chuyển luân thánh vương này là những vị chuyển được những cái bánh xe pháp luân của hàng Thánh; khai mở được cái tuệ nhãn của hàng Thánh; đắc được cái cái tâm của hàng Thánh.
Thì tất cả các tâm trên mọi người trong đó đều được nghe những điều chưa bao giờ được nghe, được điều chưa bao giờ từng có; thì lúc này mới mừng rỡ chắp tay một lòng nhìn Phật.
Nhìn Phật là phải nhìn vào cái sự tu của mình nó phát triển tới đâu, nhìn vào đó rồi thấy được các trí thanh tịnh của các đức Phật này thâm sâu rộng lớn không thể đo lường hết được thì lúc này mới thật sự gọi là mừng rỡ chắp tay; chắp tay này cũng là chắp tay quy phục.
Bấy giờ, đức Như-Lai từ tướng lông trắng chặng giữa chân mày phóng ra luồng ánh sáng soi khắp cùng cả một muôn tám nghìn cõi nước ở phương đông, như nay đương thấy ở cõi Phật đây.
Bấy giờ Đức Như Lai từ tướng lông trắng chặng giữa chân mày. Thì bây giờ chúng ta phải thấy được cái tướng của Đức Như Lai này là gì đã; cái thể tướng của Như Lai nó như cái thể tướng của hư không vậy đó; thì con mắt của Như Lai nó không có ở giữa, cũng không có hai bên; nó chỉ là sự thị hiện.
Cho nên chúng ta có thấy kinh miêu tả về một vị đại Bồ tát tên là Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát; tức là vị Bồ tát này có một ngàn con mắt, và một ngàn cái tay; tượng trưng cho có thể nghe được tất cả, rồi dùng cái tay này để vớt chúng sanh lên.
Thì cái tướng của Bồ tát này là cái tướng của sức thần thông tự tại vẫn có thể biến ra được, nhưng nó cũng ẩn chứa cái ý nghĩa trong đó.
Cho nên mình nghe giữa chặng mình chấp vô hình tướng thì không thể thấy được pháp thân thật sự của Đức Như Lai.
Ví dụ:
Có một người tu trì tinh tấn.
Anh ta đang nằm thì có hai vị Bồ tát tới, anh ta mới nhìn lên hư không nhưng anh ta không thấy cái gì cả. Nhưng đặc biệt một cái là anh ta biết bên phải là có ngài Phổ Hiền; tự trong đầu anh ta tự nhiên khởi lên và biết cái tên Phổ Hiền đó luôn, và bên trái là có ngài Văn Thù. Ở giữa cũng có một vị nào đó nhưng lúc đó anh ta không thể biết đó là ai, anh ta chỉ biết là có một vị nào đó mà thôi. Mà ba vị này cái tướng đều như hư không, không có hình dạng để phân biệt; chỉ có cảm nhận được thôi, cảm nhận biết rõ mọi thứ mà không cần phải nghe một âm thanh nào cả.
Chỗ này nó sâu lắm, phải đợi tu được kinh nghiệm rồi tự cảm nhận.
Thì cái tướng lông trắng này không phải là một sợi lông màu trắng nó mọc giữa trán của Đức Phật đâu; nhưng mà kinh nói vậy là mình nghe mình tin liền thì đó chưa phải thấy nghĩa thật.
Giờ Phật chỉ mượn hình tướng của sợi lông màu trắng ở giữa chặng mày này để chỉ cái tướng khác; mà cái tướng này người thế gian không có, cũng không biết dùng từ gì để miêu tả cho dễ hiểu cho nên phải mượn đỡ một cái ngôn từ nào đó để ẩn dụ cái tướng này của Như lai.
Rồi: phóng một luồng ánh sáng soi khắp cùng cả một muôn tám nghìn cõi nước ở phương đông. Tức là cái trí lực công năng của Như Lai nó giống như là một luồng ánh sáng soi khắp cùng cả thế gian, mọi thứ đều tính toán như nằm lòng trong bàn tay; không có một nơi nào thoát ra được sự kiểm soát đó, có một hệ thống quản lý đồ sộ rất khoa học; rất khoa học nhưng cái khoa học thời nay chưa thể khám phá ra được; mà có cho khám phá ra được cũng không thể chứng minh hết được.
Như nay đương thấy ở cõi Phật đây.
Thì ánh sáng đã soi tới đây từ lâu rồi, như nay đương thấy ở cõi Phật đây là chính cõi Ta bà mình. Ánh sáng đó mọi người tất cả chúng sanh đều đang ở trong đó, mọi thứ vạn vật cũng đều từ cái ánh sáng đó mà ra. Thì đây là một điều bí mật; bởi vì nó bí mật là vì mình vẫn chưa chứng minh được, chưa thành tựu được thì chưa thể thấy biết kiểm chứng được.
Rồi những điều đã nói ra đây cũng tức đã không còn là bí mật nữa, đã nói toạc ra hết rồi. Ngày xưa dấu kín, bây giờ dân số đông đủ rồi; thời đại công nghệ liên lạc in ấn kinh sách mọi thứ đều dễ dàng; cũng đầy đủ mọi hiện tượng cho mình diễn đạt thì mới nói được. Thế giới bây giờ nó nằm gọn như trong lòng bàn tay, chỉ cần lên google map thì cũng đều thấy hết.
Thì đây vệ tinh đó đang bay ngoài không gian, cả cái cõi này dân số bao nhiêu họ thật sự muốn tính là tính được trong từng ngày; mọi trang đưa tin chuyện tốt chuyện xấu công nghệ xã hội cũng đều lan truyền nhanh chóng.
Tức là tất cả các pháp đều tương đối đầy đủ rồi.
Nếu để nó phát triển quá nữa mà không có lộ trình của Phật đạo chặng rốt sau này ra đời thì thế gian nhanh hủy hoại; xã hội nhiều cạnh tranh, chúng sanh càng sướng thì cũng càng khổ; mọi thứ đều nhanh bùng nổ; hai mặt tốt xấu đều đủ.
Thì bây giờ đã đương thấy hết cõi rồi đó, cả cái này cũng đều có thể thấy được.
Thì bây giờ mình tu vô được rồi thì cái thần thông này nó còn thấy được cái cõi Phật thật sự như đương thấy cái cõi này hiện nay vậy.
Di-Lặc nên biết! Khi đó trong hội, có hai mươi ức Bồ-Tát ưa muốn nghe pháp, các vị Bồ-Tát ấy thấy ánh sáng chiếu khắp các cõi Phật được điều chưa từng có, đều muốn biết vì duyên cớ gì mà phóng ánh-sáng này. Khi ấy, có vị Bồ-Tát hiệu Diệu-Quang có tám trăm người đệ-tử.
Khi đó trong hội là trong thế giới này, có hai mươi ức Bồ Tát tức là có hai hạng Bồ Tát ưa muốn nghe pháp; một là hạng chưa có tu vô được, mới nghe biết tin nhận chịu nghe cái pháp này làm cho ngộ biết được đường tu là thế nào; hai là hạng Bồ tát ấy là người đã tu vào rồi thấy ánh sáng chiếu khắp các cõi Phật được điều chưa từng có, là cảm nhận được cái cảnh giới vi diệu trong các cõi tâm linh.
Bây giờ nếu có bất cứ một người nào trong cõi nước này, hoặc đất nước này đang đọc cái lời lẽ này mà phát được cái lòng Bồ tát; lại ưa muốn nghe những cái lời lẽ này. Những cái lời lẽ này nó đã soi sáng khắp được cho mình hiểu được cảnh giới của sự hành đạo trong các cõi Phật; thì điều này là điều mình chưa bao giờ được nghe, như điều chưa từng có.
Thì mọi người mới khởi lên một cái câu thắc mắc, là đều muốn biết được vì cái duyên cớ gì mà nay lại có người giải phóng ra cho mình biết được cái ánh sáng này.
Bấy giờ, đức Phật Nhật-Nguyệt Đăng Minh từ trong chánh-định mà dậy, vì Diệu-Quang Bồ-Tát nói kinh Đại-thừa tên "Diệu-Pháp Liên-Hoa" là pháp giáo hoá Bồ-Tát được chư Phật hộ niệm, trải qua sáu mươi tiểu kiếp chẳng rời chỗ ngồi.
Thì lúc này, Đức Nhật Nguyệt Đăng Minh từ trong chánh định mà dậy tức là khơi dậy; rồi mới vì cái pháp diệu dụng quang minh của Bồ tát này mà nói kinh Đại thừa tên “Diệu Pháp Liên Hoa” là pháp giáo hóa Bồ-Tát được chư Phật hộ niệm, trải qua sáu mươi tiểu kiếp chẳng rời chỗ ngồi.
Thì tiểu kiếp của một đời người là sáu mươi năm, qua sáu mươi năm coi như cũng gọi là sống thọ; bởi vì sáu mươi tuổi hơn là bắt đầu già rồi, có chưa hết một kiếp người nhưng cũng gọi là một kiếp sống rồi. Thì Phật nói kinh là nói cho mình nghe từ trong bụng mẹ nói ra chứ không phải bây giờ mới nói; rồi sanh ra lớn lên đi học a,b,c rồi thọ nhận tất cả mọi tình huống để phát triển trí não thì đều gọi là pháp.
Thì sáu mươi tiểu kiếp mà cái kiếp này nó nhỏ hơn nữa của sáu thời là: Đầu ngày, giữa ngày, cuối ngày là ba thời ban ngày; rồi đầu đêm, giữa đêm, cuối đêm là ba thời ban đêm.
Tương ứng với hai mươi bốn giờ đồng hồ, mỗi giờ là sáu mươi phút, mỗi phút là sáu mươi giây, mỗi giây cũng chia thành sáu mươi chớp.
Thì một ngày cũng giống như một kiếp vậy; ban ngày thì thức dậy, ban đêm thì đi ngủ; mà ngủ rồi thì ngày cũng như đêm. Người ta gọi là ngủ như chết; mà khi ngủ có phải mình bị lạc vô cảnh mộng hay không, gọi là thần thức của mình nó chìm trong giấc mộng, mà trong giấc mộng cũng có pháp trong đó; cũng có cảnh giới của mộng trong đó. Thì từ cõi mộng trở về thì cũng giống như là một kiếp mới rồi.
Lúc ấy trong hội, người nghe pháp cũng ngồi một chỗ đến sáu mươi tiểu kiếp thân tâm đều không lay động, nghe đức Phật nói pháp cho là như trong khoảng bữa ăn. Bấy giờ trong chúng không có một người nào hoặc là thân hoặc là tâm mà sanh lười mỏi.
Thì trong cái hội này thì trái đất này cũng gọi là một cái hội gọi là xã hội.
Người nghe pháp cũng ngồi một chỗ tức trụ một chỗ đến sáu mươi tiểu kiếp thân và tâm chẳng lay động.
Thì nãy giờ mình ngồi nghe đây đã được một tiểu kiếp chưa, được sáu mươi phút chưa, hoặc được sáu mươi giây chưa. Bao nhiêu không kể nhưng mình ngồi mình đọc một lèo như vậy thì thấy như là trong khoảng bữa ăn thôi chứ không nhiều.
Thì bây giờ mình thấy cái thân này của mình là thân gì?
Thân tứ đại đất nước gió lửa hợp thành.
Rồi mình dùng cái gì để nghe?
Dùng cái tâm.
Thân và tâm của mình có lay động không?
Vẫn lay động; chưa tin biết nổi thì chắc chắn lay động.
Thì cái thân của mình nó vẫn còn đây thì tức là nó phải lay động thì mình mới sống được.
Thì bây giờ cái ám chỉ chỗ không lay động đây tức là trong chúng không có một người nào hoặc là thân hoặc là tâm mà sanh lười mỏi tức là không lay động. Mình lười mỏi tức là lười biếng và mỏi mệt, tức là thân và tâm đã lay động.
Đức Phật Nhật-Nguyệt Đăng-Minh trong sáu mươi tiểu kiếp nói kinh đó rồi, liền ở trong chúng Ma, Phạm, Sa môn, Bà-la-môn, và Trời, Người, A-tu-la mà tuyên rằng : "Hôm nay vào nửa đêm, Như-Lai sẽ nhập Vô-dư Niết bàn".
Thì Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh trong sáu mươi tiểu kiếp này là nó tượng trưng cho ngày và đêm; mà trong ngày và đêm này là từ cái lúc ổng khai thiên lập địa cho đến bây giờ đã có ngày đêm rồi.
Thì liền tức là luôn luôn ở trong chúng ma, Phạm, Sa môn; và trời, người, A-tu-la tất cả những bộ chúng như vậy mà tuyên rằng; tuyên tức là tuyên bố, tuyên bày.
Hôm nay vào nửa đêm; thì nửa đêm này là ban ngày cũng là nửa đêm, mà ban đêm cũng là nửa đêm; giữa ngày và đêm của thế giới này gọi là nửa đêm.
Bây giờ lấy ví dụ:
Trái đất này thì mình là ở Việt Nam nó đang là ban ngày thì ở bên Mỹ đang là ban gì?
Ban đêm.
Cho nên cái nửa đêm này mình phải biết rằng Phật chỉ đang mượn cái tướng nửa đêm để mà tuyên bày các pháp thôi; các hàng chúng họ đều đang ở trong cái nửa đêm này.
Thì hôm nay vào nửa đêm Như Lai sẽ nhập Vô-Dư Niết Bàn tức là cái tướng của Như lai này nó đã trùm hết hư không rồi, mà đã là cái tướng của hư không rồi thì không có đêm ngày, không thể dùng trí phàm mà bàn tán được cái gì trong đó; cái quá khứ tương lai nó cũng đều nằm trong cái khoảng không đó; cái Vô Dư Niết Bàn này nó trụ như vậy nhưng nó cũng có nhiều lớp nghĩa.
Thì Như Lai cũng đều tồn tại trong ba thời quá khứ hiện tại và vị lai chứ không có biến mất, cũng không có đi đâu. Cho nên kinh mới nói rằng: Mười phương chư Phật thường ở trong đời, hương mầu đầy lấp, pháp vị ngập tràn, phóng ánh sáng sạch trong chiếu soi tất cả, lý mầu thường trụ đầy dãy hư không. Thì đây, đây cũng gọi là Vô-Dư Niết bàn.
Cái này nó giống như là đang nói chuyện trên trời khoa học viễn tưởng vậy đó; trên phim ảnh người ta cũng chưa có tưởng tượng ra hết được.
Thì kinh đây là miêu tả cái cảnh giới tu; vô được tới đó rồi thì không còn viễn tưởng nữa. Giờ có tin đi nữa nhưng chưa thấy thì cũng tức là viễn tưởng; đang giảng giải đây vẫn là viễn tưởng, chưa nhập vô được thì vẫn chưa gọi là Vô Dư Niết Bàn.
Khi đó có vị Bồ-Tát, tên Đức-Tạng đức Phật Nhật-Nguyệt Đăng-Minh liền thọ-ký cho, bảo các Tỳ-kheo rằng : "Ông Đức-Tạng Bồ-Tát này kế đây sẽ thành Phật hiệu là Tịnh-Thân Như-Lai Ứng-cúng, chánh-đẳng chánh-giác". Đức Phật thọ ký xong, vào nửa đêm bèn nhập Vô-dư Niết-bàn.
Thì bây giờ có ông Bồ Tát nào đó mà tên là Đức Tạng, tức là Bồ tát đó có một cái tạng đạo đức. Thì Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh sẽ liền thọ ký cho; thọ ký tức là chấp nhận cho ông Đức-Tạng Bồ-Tát này kế đây sẽ thành Phật hiệu là Tịnh Thân; hiệu là Tịnh Thân có nghĩa là hiểu được cái cảnh thanh tịnh được pháp thân. Rồi Như Lai, Ứng Cúng; tức là mình được Như Lai ứng cho cúng cho, hay còn gọi là gia trì cho cái chánh đẳng chánh giác.
Thì đây là thành Phật nhưng chỉ mới có hai hiệu thôi, chứ chưa đủ mười hiệu. Thì cái thọ ký này là chỉ mới thọ ký cho mình tu để đạt được hai cái hiệu đó trước.
Vào nửa đêm bèn nhập Vô-Dư Niết-Bàn.
Tức là khi đã thọ ký xong rồi; thì cái vị Đức Tạng Bồ Tát mới bắt đầu thấy được cái nửa đêm này.
Thì ở đây nói rằng tất cả các hàng người tu chuyên vào cái tạng đạo đức Bồ tát thì cũng đều sẽ được thọ ký cho thành Phật hiệu là Tịnh Thân Như Lai, Ứng cúng, chánh đẳng chánh giác.
Sau khi đức Phật diệt-độ, Diệu-Quang Bồ-Tát trì kinh "Diệu-Pháp Liên-Hoa" trải tám mươi tiểu kiếp vì người mà diễn nói.
Sau khi Đức Phật diệt độ; thì đây là mượn cái tướng diệt độ để mà nói pháp chứ không phải diệt độ là mất luôn.
Ví dụ khi xưa Đức Thích Ca Mâu Ni Phật mượn tướng thế gian, mượn thân tứ đại này mà thị hiện.
Mà cái thị hiện đã được chuẩn bị rất kỹ càng qua nhiều thời kỳ; một đội ngũ các hàng trợ Phật đạo cũng đồng xuống một lúc qua nhiều thời đại, lúc này Phật mới nói ra tất cả các pháp tạng kinh điển cho đến các hàng thưa hỏi cũng đều xuất hiện để trợ Phật nói pháp.
Rồi ta phải thấy rằng cả một cuộc đời hơn tám mươi năm của Đức Phật Thích Ca mình là một sự thị hiện của tạng pháp báu; rồi Phật cũng giáo hóa được vô số chúng sanh các hàng tu từ đó cho đến bây giờ.
Thì Diệu Quang Bồ Tát này tượng trưng cho cái diệu pháp quang minh khi mà trì Kinh Diệu Pháp Liên Hoa này.
Nếu mà tính theo hiện nay trải tám mươi tiểu kiếp tức là khoảng chừng tám mươi năm; tám mươi là tương đối đủ để trì cái kinh này để vì người mà diễn nói; rồi muốn nói thì phải thấy được phần nào cái trí Diệu Quang thì mới diễn nói được.
Thì trì kinh ở đây không có nghĩa là chỉ đọc bằng miệng cái kinh này miết cho tới già tám mươi tuổi; mà nó qua từng giai đoạn, học hiểu tất cả các pháp nơi thế gian; phân biệt rõ biết không có sai lầm tùy sức diễn nói.
Rồi tám mươi tiểu kiếp đây lại cũng có nghĩa là trải qua tám đại kiếp; thời gian này cứ tạm hiểu là tám tỷ năm, trải qua một trăm triệu kiếp, mỗi kiếp là một ngàn năm.
Chỗ này rất là nhiều nghĩa lý ẩn chứa trong đó.
Tám người con của Phật Nhật-Nguyệt Đăng-Minh đều học với ngài Diệu-Quang, ngài Diệu-Quang dạy bảo cho đều vững bền ở nơi đạo Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác. Các vị Vương tử đó cúng dường vô lượng trăm nghìn muôn ức đức Phật đều thành Phật-đạo. Vị thành Phật rốt sau hết, hiệu là Nhiên-Đăng.
Tám người con của Phật tức là tám vương tử nghe vua cha xuất gia cũng xuất gia theo nay đều học với ngài Diệu Quang; thì tám người con này thì ai tu tới đây rồi cũng có cả, từ Hữu Ý cho đến người con Pháp Ý ai tu rồi cũng phải đi tìm ở chỗ đó.
Thì cũng đều được học với ngài Diệu Quang; thì ngài Diệu Quang chính là cái kinh này đây.
Phật Nhật Nguyệt Đăng minh tạo ra cái kinh pháp này, kiến tạo ra tất cả thế gian trao lại cho thế hệ sau; thì kinh pháp này là sự thể hiện có thể nói bày được tất cả các điều ẩn chứa trong đời.
Kinh nói Đức Nhật Nguyệt Đăng Minh nhập vào Vô Dư Niết Bàn nhưng tám người con của Phật cũng còn ở nơi đây.
Ngài Diệu-Quang dạy bảo cho đều vững bền ở nơi đạo Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác là tất cả các pháp mà Phật thị hiện ra nơi đời đều gọi là ngài Diệu-Quang. Ngài Diệu-Quang này dạy bảo cho đều vững bền ở nơi Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Khi vững bền ở nơi đạo Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác thì các vị vương tử tức là những người con của mình đó cúng dường vô lượng trăm nghìn các Đức Phật đều thành Phật-đạo.
Xưa kia tám vương tử là con của Đức Nhật Nguyệt Đăng Minh; nhưng bây giờ lại được giao phó cho ngài Diệu Quang này dạy bảo.
Vị thành Phật rốt sau hết, gọi là Nhiên-Đăng.
Vị thành Phật rốt sau hết; tức là tám vị này thực ra chỉ là một vị thôi. Vị thành Phật rốt sau hết gọi là Nhiên Đăng tức là báo thân của Đức Thích Ca Mâu Ni Phật của mình hiện nay; cũng tức là cái vị Đức Tạng Bồ Tát năm xưa trước khi được Đức Nhật Nguyệt Đăng Minh Phật sẽ thọ ký sẽ thành Phật hiệu là Tịnh Thân Như Lai, Ứng cúng, Chánh đẳng Chánh giác.
Mà tám vị vương tử cũng chính là Đức Tạng Bồ Tát đều được ngài Diệu Quang dạy bảo cho đều vững bền ở nơi đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Thì đây là đang nói cái ám chỉ cảnh giới của hàng tu Phật đạo; mỗi cái tên đều có một cái mật nghĩa sâu xa trong đó.
Trong hàng tám trăm người đệ-tử có một người tên: Cầu-Danh, người này tham ưa danh lợi, dầu cũng đọc tụng các kinh mà chẳng thuộc rành, phần nhiều quên mất, nên gọi là Cầu-Danh.
Trong hàng tám trăm người đệ tử có một người tên: Cầu Danh.
Tám trăm người này cũng là ám chỉ mỗi người đều có tám người con; ám chỉ là mình đây; mỗi cái ý nó sanh hàng trăm ý; hàng trăm ý này nhân cho tám lần như thế gọi là tám trăm người đệ tử.
Trong tám trăm người đệ tử này có một người tên: Cầu Danh. Tức là những đệ tử khác còn lại sẽ có những tên khác, chỉ có một người tên là Cầu Danh thôi.
Người này ham ưa danh lợi; ý nói trong tám trăm cái ý này thì người này có cái ý tham ưa danh lợi, dầu cũng đọc tụng các kinh mà chẳng thuộc rành.
Thì phải thấy rằng kinh này thì rất khó sao mà thuộc rành cho nổi, bởi vì đây là Phật đạo; nhớ ở đây thì phải gọi là nhuần nhuyễn; bởi vì sao?
Bởi vì người này tham ưa danh lợi; mà danh lợi không có nói là danh lợi tốt hay là danh lợi xấu.
Rồi dầu cũng đọc tụng các kinh mà chẳng thuộc rành; tức là cũng có nghe biết cái trí Phật đạo này, các kinh pháp của thế gian này nhưng mà không có thông thuộc rành rỏi.
Phần nhiều quên mất; tức là người này cũng có nhớ cho nên mới quên.
Bởi vì sao quên?
Ví dụ kiếp này mình tu hành Bồ tát đạo dưới trần gian; rồi sau đó trở về chỗ của Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát. Về tới đây rồi muốn hành Bồ tát đạo lại phải phân thân xuống tiếp; mà đã xuống dưới này rồi thì phần nhiều quên mất. Chính vì quên mất này cho nên mới gọi là: Cầu Danh.
Người này cũng do có trồng các nhân duyên căn lành nên được gặp vô lượng trăm nghìn muôn ức đức Phật mà cúng dường cung kính tôn trọng khen ngợi.
Di-Lặc nên biết! Lúc đó Diệu-Quang Bồ-Tát đâu phải người nào lạ, chính là ta đấy. Còn Cầu-Danh Bồ-Tát là ngài đấy.
Thì đây là ngài Văn Thù Sư Lợi đang kể về một người tên là Cầu Danh Bồ Tát. Như vậy rõ ràng vị này là đang cầu cái danh bồ tát cho nên mới gọi là Cầu Danh Bồ Tát. Vị này cũng do có trồng các nhân duyên căn lành nên được gặp vô lượng trăm ngàn muôn ức các Đức Phật; thì rõ ràng ràng ở đây là ông Cầu Danh này là ổng đã tu lâu lắm rồi cho nên mới được như thế.
Thì Diệu Quang Bồ Tát này cũng tiết lộ ông Bồ Tát đó đâu phải ai xa lạ, chính là ta đấy; thì ta đấy đây chính là ông Văn Thù.
Thì phải biết ông Văn Thù này là ổng kế thừa từ Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh lúc đó ổng lấy tên là Diệu Quang; rồi cái người dạy ra ông Nhiên Đăng cũng lại là ông Diệu Quang; thì nay là phát hiện đó là ông Văn Thù Sư Lợi. Rồi Phật Nhiên Đăng từ đó đến nay đã trải qua vô số kiếp hóa độ chúng sanh cho tới thời Phật Thích Ca đây. Rồi từ Phật Thích Ca mới phó chúc lại cho Di Lặc Bồ Tát là đã có sự chuẩn bị từ xa xưa rồi; Phật đạo cứ như thế mà làm.
Nói cho dễ hiểu là ông Di Lặc hôm nay địa vị tương đương với vị rốt sau hết gọi là Nhiên Đăng; tức là sau đợt này là lên ngôi vị của Phật đạo lớn.
Nói cho hết cái chỗ này nó nhiều lắm, phải gọi là thiên kinh vạn điển mới tỏ ra hết được.
Nay thấy điềm lành này, cùng với xưa không khác, cho nên ta xét nghĩ hôm nay đức Phật Như-Lai sẽ nói kinh Đại thừa tên: "Diệu-Pháp Liên-Hoa" là pháp giáo hoá Bồ-Tát được chư Phật hộ niệm.
Nay thấy điềm lành này cùng với xưa không khác; tức là ngày đó với bây giờ giống nhau. Ông Văn Thù đã thấy hết kịch bản rồi. Cho nên xét nghĩ hôm nay Đức Phật Như Lai sẽ nói kinh Đại thừa tên: "Diệu-Pháp Liên-Hoa" là pháp giáo hoá Bồ-Tát được chư Phật hộ niệm.
Ông văn Thù đang nhắc tới Đức Phật Như Lai là nhắc tới ai?
Nhắc tới Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh, Đức Nhật Nguyệt Đăng Minh này là mượn tướng của Đức Như Lai ở thế giới này gọi là Đức Thích Ca; Đức Thích Ca với Đức Nhật Nguyệt Đăng Minh là đồng một thể tánh, lúc này ngài lại xuất hiện trong đời; bởi vì điềm lành cùng với xưa không khác.
Cho nên phải biết rằng ở đây là cả một hội đồng đang nói Kinh Pháp Hoa, mượn tướng của tất cả thế gian, người trong đời, các hàng tu để mà nói Kinh “Diệu Pháp Liên Hoa” là pháp giáo hóa Bồ Tát được chư Phật hộ niệm.
Tôi nghe như thế này: Một thuở nọ đức Phật ở trong núi Kỳ-Xà Quật, nơi thành Vương xá cùng chúng đại Tỳ-kheo một vạn hai ngàn người câu hội.
Nguyên văn: Tôi nghe như thế này thì chữ đầu tiên trong này là chữ tôi; chữ tôi này là gì, tại sao gọi là chữ tôi. Thì bây giờ mình mới đi tìm cái đạo trong chữ tôi này.
Bây giờ ta hỏi: Tôi là ai?.. Thì tôi đây là một người đang sống trong bóng tối; vì cái tôi này mà tôi tạo nhiều tội lỗi tôi sống trong bóng tối của vô minh tồi tệ. Mà vô minh tức là gì?.. Là phiền não, là thiếu hiểu biết, là không sáng suốt, là nhiễm ô, uẩn; uẩn tức là tạp dơ, uẩn khúc; đó chính là vô minh.
Khi mình đi trên đường mình nhặt được một cái điện thoại, mình mừng quá. Ô điện thoại kìa, mình bay vô mình nhặt lấy. Mình nghĩ:
- A! Bữa nay ta có điện thoại sài rồi, mừng quá.
Lúc này mình đang giữ thì có tin nhắn gởi đến để xin lại cái máy.
Thì bây giờ hỏi: Cái gì không phải của mình mà muốn lấy làm của riêng thì như vậy có tệ hại không? ..
- Rồi mình tự đặt nghi vấn: Ủa, tôi đâu có ăn cắp của ai đâu, tui nhặt được giữa đường giờ là nó của tui rồi. Đến tay mình rồi mà trả lại là ngu.
Bây giờ hỏi: Nhặt được của rơi có giá trị rồi đem trả lại gọi là ngu hay không?
- Người đàng hoàng tử tế không ham của rơi trả lại thì gọi là người tốt; người tham lam thì kêu trả lại là ngu. Thì xã hội người ta biết đức tính của mình không có được tốt, thì chính cái xấu tính này là vô minh.
Đó, cái điện thoại đó có phải của mình không? Không. Không, vậy sao tham của người ta. Rồi giờ mình rớt cái điện thoại mà mình đã gom từng đồng từng cắc, hoặc cha mẹ hay ai đó mua cho, hoặc mình mua dùng nó bao nhiêu năm; trong đó có nhiều tư liệu thông tin quan trọng giờ lỡ đánh mất thì có muốn đòi lại không?
- Đứa nào nhặt được của ta rồi, gọi điện muốn đem tiền chuộc lại thì nó tắt máy luôn nó không thèm nghe, nhắn tin thì nó không trả lời.
Thì đó, khổ não không, tức tối không?
Tức tối cũng đâu làm được gì, mình đâu có điều tra được cái thằng đó là ai đâu.
Thì giờ khi mình nhặt được cái điện thoại của người khác mình phải nghĩ tới cái hoàn cảnh của họ coi có giống như là mình bây giờ hiện nay không; khi nghĩ được như vậy mình đem mình trả lại cho họ liền không có suy nghĩ thì như vậy cuộc sống mới tươi đẹp trong sáng, xã hội mới gọi là văn minh.
- Trả lại rồi mà hối hận nghĩ rằng: Biết vậy không trả giờ có cái điện thoại xài chơi. Như vậy, thêm một cái thằng vô minh nữa lại xuất hiện; thằng này cũng tồi tệ.
Con người sống là phải có lòng tự tôn tự trọng, tự biết ý thức mọi vấn đề thì đó là cái ngã thanh cao thì không có chuyện để hối hận.
Cho nên phải nhớ rằng cái tôi này nó quan trọng lắm: nó có thể ảnh hưởng cả một cái tôi của một dân tộc chứ không phải là một cá nhân ai.
Ví dụ người Việt Nam hay người Trung Quốc gì đó mình qua các nước phát triển; thấy đồ đạc bên này dễ ăn trộm quá rồi ăn trộm của người ta. Dân tộc người ta có lòng tự trọng ý thức cao, còn mình qua đó thấy dễ lấy trộm quá nổi lòng tham tìm cách ăn trộm của họ, rồi tới khi họ bắt tại trận. Bây giờ chưa nói gì đến nỗi nhục của riêng gì bản thân, mà mình đang mang lại nỗi nhục cho cả một dân tộc, báo chí họ đưa tin miết như vậy mình không làm gì nhưng có chịu nổi không; có còn tự hào được nữa hay không.
- Đó, người Việt Nam đi đâu cũng ăn trộm ăn cắp. Giờ đi đâu trên khắp thế giới nó biết nó nghe tới người Việt Nam là họ khinh ra mặt.
Cho nên mình làm cái chuyện ăn trộm ăn cắp đó mình có nghĩ tới dân tộc của mình không?.. Nhục nhã vô cùng, gần 100 triệu dân Việt Nam không làm gì nên tội cũng nhục nhã hổ thẹn ê chề với một số thành phần như vậy.
Thì bây giờ mình phải ý thức được lòng tự tôn của một con người, phải ý thức được chữ tôi này nó quan trọng lắm.
Giờ nói đến vô ngã, vô ngã này là vô ngã ở thế gian trước.
Bấy giờ tôi làm ăn tôi có dư ra được khoảng năm bảy trăm triệu, nhà cửa vườn tược dinh thự cũng đầy đủ. Thằng em trai tôi gia cảnh trước đó cũng được, nhưng giờ thì nó không lo làm ăn rồi gia cảnh nó trở nên khốn khó quá, vợ con nó đói nó nằm dài ra nó kêu than ở nhà. Giờ nó nghĩ anh mình khá giả hơn mình, thôi tới hỏi vay tạm chục triệu coi sao; giờ nghẹt nghèo quá rồi.
- Thôi, chú mượn người khác đi. Anh cũng không có dư giả gì để cho chú mượn đâu, chú thông cảm dùm anh. Bây giờ chú cầm đỡ hai trăm ngàn này đi, anh chỉ giúp được chú bấy nhiêu đó thôi; chú ráng tự xoay sở đi, còn tui thì tôi cũng phải lo cho gia đình tôi nữa.
Trời ơi, đời sao mà bạc vậy trời. Mượn hỏi có mười triệu thôi, từ từ em hứa em trả cho, giờ em đi mượn bên ngoài nó lấy lãi cắt cổ em không kham nổi, nhà em cũng không còn cái gì để bán; em cũng vất vả làm ăn nhưng hoàn cảnh nó vẫn chưa có khởi sắc lên được, sao anh em với nhau mà đối xử tệ bạc như vậy.
- Người anh mới nói: Tiền tôi đứt ruột làm ra chứ có phải từ trên trời rơi xuống đâu mà chú nói muốn mười triệu là có liền đâu; bây giờ cho chú mượn chú cậy vào đó chú không lo làm ăn chú cứ đi mượn tôi miết như vậy thì chết tôi à. Tôi cũng đâu có lo cho gia đình chú được cả đời đâu.
Thì mình thấy người anh này như thế nào, người anh này có tham tiền, có vô tình máu lạnh không?
- Nhưng sự thực có phải như vậy không?
Lúc này người anh trước mặt thì tuyệt tình đuổi khéo đuổi thẳng người em đi như vậy rồi, nhưng sau lưng thì âm thầm hỗ trợ cho người em này; mới nhờ một người đáng tin cậy qua lân la quen biết rồi giúp đỡ nhiệt tình cho người em này, rồi bắt đầu chỉ hướng nâng đỡ cho làm ăn. Qua năm bảy năm người em này mới bắt đầu khá giả và trở thành giám đốc một công ty lớn, có một cuộc sống tốt đẹp viên mãn hơn.
- Lúc này trong một buổi tiệc người anh mới tìm đến chúc mừng rồi thăm lại người em của mình. Người em khi gặp mặt người anh này mới tỏ những thái độ khinh bỉ, mới đem đúng cái đồng tiền hai trăm ngàn ngày xưa mà người anh đã bố thí cho trả lại cho người anh. Lúc đưa cho người anh đồng tiền này thì mới cố ý làm rớt cái đồng tiền đó xuống sàn nhà.
Lúc này người anh mới lặng lẽ cúi đầu xuống nhặt tiền lên, vẫn chịu đựng để cả gia đình của người em khinh bỉ mà không hề thanh minh điều gì. Rồi mới nói:
- Thôi, chào chú tôi về.
Lúc này ông phó giám đốc của người em mới lên tiếng: Ông chủ, khoan đã. Mới quay sang người em nói rằng:
- Thưa giám đốc, những gì giám đốc có hôm nay cũng đều nhờ có anh của giám đốc đứng ở đằng sau hỗ trợ tất cả; nhưng không cho tiết lộ. Tôi là bạn thân của anh giám đốc đã nhờ vả kêu tôi thay mặt đứng ra giúp đỡ cho giám đốc những lúc khó khăn nhất để rồi đi đến và có được như ngày hôm nay.
Thì lúc này hai anh em mới ôm nhau khóc.
Bây giờ mình tu đạo rồi thì phải giữ cho cái chữ tôi này nó trang nghiêm thanh tịnh. Là mình phải đem cái thân tôi này ra làm những việc có ích cho đời mà không có làm việc đáng hổ thẹn, không có chối từ gian nan khổ nhọc thậm chí là hiểu lầm; như vậy ba nghiệp đều làm cho thanh tịnh. Ba nghiệp thanh tịnh trong sạch rồi thì tạm gọi là vô ngã.
Cái vô ngã này là mình có thể chịu đựng được những gì mà người bình thường không thể chịu được, có thể làm được những gì mà con người không thể nghĩ bàn được.
- Ví dụ người ta chê bai nói sốc mình một câu mình có chịu đựng được không?
Không chịu được.
Cho nên chê một câu mình không chịu được huống hồ gì hiểu lầm mình sâu nặng năm bảy năm thì liệu mình có phát được lòng đại bi không; có đủ trí tuệ thần lực để dứt hẳn các phiền não này không; có đủ phương tiện kham nhẫn để đem lại việc lợi lớn cho đời không.
Cho nên vô ngã của người tu là bỏ cái ích kỷ, kiêu ngạo; phát cái lòng đại trí đại lực lớn để làm lợi cho đời. Thì tới đây mình thọ trì đọc tụng kinh điển mới có ý nghĩa. Không biết được cái nghĩa này thì ức kiếp tu hành cũng không được gì.
Thì từ cái chữ tôi này đây mới gọi là Tôi nghe như thế này:
Cho nên tôi nghe như thế này là phải nghe thấy được cái chữ tôi trước; mà muốn thấy được vô ngã thì phải thấy được bản ngã trước, chữ tôi đây mà không thấy hiểu được thì không cái gì cho mình thấy nữa, chỉ thấy đau khổ phiền não bức bách triền miên thôi chứ không thấy được cái lý giải thoát, cái lý diệu mầu của các pháp.
Đó, nghe như thế này là nghe thế này thôi chứ không đơn giản đâu. Mình phải nghe lại chính mình cho nên gọi Ngã văn, ngã văn đây là nghe cái lời lẽ trong tự tánh của mỗi người trước. Nghe cái gì?
- Ừ! Ta tu giờ ta muốn gì?
Ta muốn tìm đến cảnh giới giải thoát.
- Giải thoát cái gì?
Giải thoát khỏi ba nghiệp nhiễm ô nó làm cho ta sanh tử. Tâm ta không có được an lạc, trí ta mê mờ, tuệ giác ta không có, ta không có thấy biết được bất cứ một cảnh giới an lạc nào cả. Cho nên giờ ta gặp được thánh đạo rồi, ta biết có một con đường có thể làm chấm dứt mọi phiền muộn của thế gian cũng như những thắc mắc trong lòng ta. Cho nên ta phải tinh tấn giữ tịnh giới, giữ cho các căn của ta đều thanh tịnh.
Cho nên các căn đó nó chính là ta, các căn đó nó đang làm chủ ta, khổ đau hay hạnh phúc của thế gian đều do các căn đó mà ra. Giờ ta phải điều phục nó, ta phải làm chủ được nó mà không cho nó hoành hành nữa.
Khi mình làm chủ được rồi thì đích xác là Như vậy tôi nghe.
Như vậy tức là như thị; mà như thị thì không còn là cảnh giới của phàm phu nữa, đã mở được cánh cửa giải thoát rồi, đã thấy được nghĩa kinh rồi. Khi nào người tu mình đạt được như thị rồi thì sẽ nghe được Kinh Diệu Pháp Liên Hoa này.
Mà muốn được như thị thì trước hết phải tìm ra chữ tôi, muốn tìm ra được chữ tôi lại phải được như thị. Cho nên ở đây nghĩa thì có hai nhưng con đường thì chỉ có một. Điểm khởi đâu là tôi, điểm kết thúc là như thị, nhưng chung quy nó vẫn là một điểm. Bây giờ mình chưa được như thị mà mới được như vậy thôi thì mình đành phải bắt đầu từ chữ tôi trước.
Để khám phá chữ tôi là một đoạn đường dài thì chữ tôi bản thân nó cũng là đạo, khám phá được chữ đạo chính là khám phá được chữ tôi. Chữ đạo thì chính là ông đạo cũng có chữ đạo, mà ông đạo là bậc tu hành như thị. Ông Phật cũng là bậc tu hành, cho nên khám phá bậc tu hành chính là khám phá ông Phật, khám phá ông Phật chính là khám phá cái tôi, khám phá được cái tôi rồi thì tự nhiên khám phá được tất cả chúng sanh. Khám phá được chúng sanh rồi thì cái tôi còn ý nghĩa không, tức là tôi đã biết cái bản ngã của tôi nó nằm ở đâu rồi; thì tôi đâu còn hỏi tôi là ai nữa.
Thứ nhất chúng ta định nghĩa chữ tôi này có bao nhiêu nghĩa:
Tôi là tôi nhưng cũng là: Tôi, ta, tao, tui, mình, bản thân, cá nhân, anh, chị, bà, thầy, cô, em, con, cháu, ông ...
Bây giờ tôi biết tôi là tôi rồi; rồi khi tôi nói chuyện với mẹ tôi, tôi xưng bằng cái gì?
- Đâu có xưng tôi được; đâu có đem cái bản ngã ra đây nói chuyện được.
Thì: Dạ! Thưa mẹ, là con đây.
Đó, nói chuyện với mẹ mình, mình dám tự xưng là tôi không?
Thấy không, nói chuyện với mẹ mình mà dám xưng là tôi là quá láo rồi.
Mình có thể nói chuyện với một anh chị em bạn bè thậm chí là một vị thầy chùa nào đó mình xưng là tôi thì còn được. Mình nói chuyện với mẹ mình mà mình dám xưng là tôi thì tôi này là chết rồi, đọa rồi.
- Cho nên đối với mình thì người làm cho mình có cái vô ngã đầu tiên khi mình cất tiếng khóc chào đời chính là người mẹ hoặc ông cha của mình chứ không phải là ông Phật. Những ngôn ngữ khác thì tôi không biết, họ chỉ hai ngôi thôi; nhưng riêng với ngôn ngữ Việt Nam mình là một điều vi diệu.
Bây giờ tôi hỏi: Ai là người sanh ra ông, nuôi ông khôn lớn?
- Cha mẹ của tôi sanh tôi ra, nuôi tôi khôn lớn.
Ừ! Thì cái công của cha mẹ ông là rất lớn, đem ông đến cuộc đời lo lắng chăm sóc cho ông từng miếng ăn giấc ngủ khi ông còn đỏ hỏn. Lớn lên rồi, hiểu biết rồi ông phải có trách nhiệm tôn kính tôn trọng cha mẹ ông; biết rằng cha mẹ ông là phàm phu bình thường thôi nhưng đối với họ ông là báu vật vô giá, không gì có thể mua được ông, họ có thể hy sinh mọi thứ vất vả làm mọi việc vì ông mà không có than trách.
Thì đó, đối với ông đó chính là tinh thần vô ngã của người cha mẹ đã dành cho ông. Với tinh thần đó ông đâu có quyền tự xưng là tôi với cha mẹ; ông có thể ngông cuồng ngạo mạn tới đâu đi chăng nữa nhưng riêng với cha mẹ ông thì ông phải cúi đầu. Bởi vì, ông sẽ không có một người cha hay một người mẹ nào có thể sinh ông ra thêm một lần nữa trong cuộc đời này đâu.
- Thì bây giờ tôi không nói chi cái cảnh giới vô ngã giải thoát cao siêu nào hết, nhưng ông phải biết rằng: ít nhiều chi trước mặt cha mẹ mình về mặt ngôn ngữ ông đã trở thành một người vô ngã rồi đó. Còn không nữa ông không xứng đáng để làm người khi là một thằng con xấc xược chứ đừng nói chuyện đạo gì ở đây hết.
Rồi tiếp tục: Chữ tôi với chữ ta có gì khác nhau không?
- Khác nhau hoàn toàn.
Ví dụ:
- Ta hãy làm thôi; thì chữ ta này nghĩa là gì?
Ta này có nghĩa là chúng ta. Cái ta này hoàn toàn rộng hơn cái tôi, tiếng Việt là như thế.
Bây giờ mình gặp một vị đạo sư mà mình kính trọng; ổng nói:
- Ta nói cho ông nghe, ông không nên như vậy, như vậy là không tốt. Ông hãy làm như vầy mới là tốt, ta rất vui nếu ông làm được như vậy.
Mình gặp ông đạo sư tại sao ổng tự xưng là ta với tất cả mọi người từ người già khụ cho đến người trung niên mà tất cả không ai có ý kiến gì, tự nguyện một lòng một dạ gọi thầy xưng con ngọt sớt rồi hoan hỉ vui vẻ tán dương nữa là sao.
- Nếu ngược lại là mình, mình tự xưng là ta như vậy có ai chấp nhận cho mình tự xưng như vậy không, hay là người ta chửi mình; gọi mình là thằng này thằng kia láo. Thì ở đây người ta sẽ thầm hiểu là: ta này nó sẽ đi với ngươi, ta và ngươi chứ không phải là ta và con; tức là không tôn trọng họ thì họ chửi là đúng rồi.
Còn cái ta của ông đạo sư là cái ta thanh tịnh làm cho thế gian thoát khỏi lưới trần, dìu dắt người ta đến con đường đúng đắn cho nên ông cũng như người cha người mẹ vậy, còn cái ta của mình cất tiếng lên thì đem đến là người coi thường hoặc thấy không tôn trọng họ.
Thì đó, đây là cái nghĩa vô ngã thứ hai. Mình không dùng chữ tôi, ta với bậc đạo sư.
Khi mình chưa phải là bậc đạo sư thực sự, chưa có đức độ như một người cha lành, mình không có cái trí giải thoát thì chữ ta của bậc đạo sư này không bao giờ xuất hiện.
Nếu nó xuất hiện thì phải coi chừng; có điều phục được chúng sanh hay không, có chơn chánh tu hành hay không, có đủ thần lực trí huệ để hàng phục được ma chướng hay không hay là nuôi quân tà mạn.
Cho nên khi mình bước vô cửa đạo gọi là không môn thì mình phải biết cái lý thế gian trước, cái lý thế gian mà không biết thì cái lý giải thoát không bao giờ đến được; cái chữ ta thanh tịnh cũng không bao giờ có được.
Rồi tiếp đến là chữ tao?
Tại sao người ta không tự xưng là tôi cho lịch sự mà tự xưng là tao.
Ví dụ bạn bè thân thiết với nhau nhiều người họ vẫn gọi nhau là mày tao không có chuyện gì xảy ra, đó là do họ quen họ nhiễm ngôn từ đó nhiều người trong xã hội hay dùng nên thấy bình thường.
Thì chữ tao đây cũng chỉ cho những người hung hăng, manh động, mình nghe họ nói mày tao rồi nói tục như vậy mình cảm thấy mấy người này không có văn hóa lịch sự mình có nên tránh xa những người này không?.. Mình vô mình lịch sự với bọn nó coi chừng nó cũng bắt nạt mình luôn.
Cho nên mình biết họ xưng tao với mình là họ rất là manh động, họ không đụng tới mình giờ thôi tốt nhất mình không giao du với họ thì lúc này gọi là Vô tao; cũng tức là vô ngã, vô ta. Bởi vì sao?.. Bởi vì ngã hay ta gì lơ tơ mơ cũng cùng một số phận, cũng không có kết quả tốt.
Rồi khi mình gặp một người nào đó xa lạ mình nói mày tao với họ họ có ưa mình không, lơ tơ mơ là ăn đập ngay.
Cho nên chữ tao này là chỉ những người kém văn minh đạo đức, thiếu giáo dục, nghe sao côn đồ quá; nên khi mình nghe giọng điệu mình biết bọn người này là hạng người không phải hiền lành rồi. Nói gì thì nói những người dùng chữ tôi tức là những người này có vẻ an toàn hơn, đáng tin hơn.
Đối với người ngoại quốc họ chỉ có hai ngôi thôi. Ví dụ tiếng anh có I và You, tiếng trung quốc là Wǒ và nǐ, tiếng Ấn Độ là Mê và Tum. Riêng tiếng Tây Tạng thì có một số ngôi từ phân biệt họ có tôn trọng hơn hay không; có ngôn ngữ lịch sự kính ngữ đối bậc đạo sư, và ngôn ngữ bình dân đối với người bình thường; và ngôn ngữ ngang hàng hoặc thiếu kính trọng.
Cho nên cái ngôn ngữ của nhiều nước người ta rất lịch sự; còn với tiếng Việt tâm thức nó sẽ lộ ra thành ngôn ngữ nó thể hiện trên thái độ luôn.
Rồi chữ tui: Tui với tôi cũng giống nhau thôi chớ, nhưng mà khác. Ví dụ cũng bạn bè với nhau thì họ xưng tui mà thêm dấu nặng là tụi nó, tụi kia. Ngoài khác vần ra chỉ có như vậy là khác với chữ tôi thôi.
Chữ tụi trong tiếng Việt có ý nghĩa gì không?.. À, tụi cũng giống như là đám là bọn vậy. Ủa! Mà chữ tụi này ai sáng tác ra vậy?
- Rồi hỏi Đức Phật ngày xưa có dùng từ tụi này không?
Không. Chữ tụi này nghe cục mịch giang hồ quá, chỉ có bọn thanh niên hay đám người nào đó nói với nhau vậy thôi. Đức Phật người Ấn Độ mà, chưa có đến Việt Nam bao giờ. Mà chưa chắc thời đó tiếng Việt mình đã giống như thế này. Thay đổi hết rồi, không biết được do đâu mà ra rồi tự nhiên có một nhà truyền giáo người Pháp ổng đến ổng cải cách chữ viết của mình; thành ra chữ viết của mình đâu phải do người Việt mình sáng tác ra.
Chúng tôi, chúng ta, bọn tui, bọn tao, tụi tui, tụi tôi, là mấy: cũng là một. Nhưng mà bọn thì phải khác với chúng chứ.
Chúng tôi là một tập thể nói với một người hoặc nói với một nhóm nào đó; còn chúng ta là người nội bộ đang nói chuyện với nhau. Mà tôi với ta là một mà bữa nay sao lại có hai nghĩa khác nhau tại hai ngữ cảnh; nếu không tinh ý sẽ không nhận ra.
Giờ giả dụ Đức Phật Thích Ca xuất hiện tại Việt Nam; nếu như có một số thành phần họ không tin Phật họ vô phá đám, báng bổ; họ xưng mày xưng tao, rồi ta với ngươi. Rồi Đức Phật mới dùng thần lực trí tuệ giáo hóa cho họ thì họ lại thay đổi cách gọi là ngài xưng con.
Nhưng nếu mà Phật xuất hiện ở Việt Nam mà có một số những ngôn từ quá cục mịch giang hồ quá như vậy; không lẽ những lời lẽ này cũng được ghi vô trong kinh điển luôn à. Cho nên anh có hung hăng hay lịch sự mấy đi nữa nó chỉ được thể hiện qua thái độ và một số ngôn từ vì tiếng Phạn nó chỉ có hai ngôi cho anh sử dụng thôi. Rồi bây giờ chúng ta Việt Nam đây mới nương vào đó dịch ra nhiều cách xưng ngôi như trong tiếng Việt.
Như ở bên đó họ đâu có chữ ngài đâu, cũng từ một ngôi mà họ dịch ra chữ ngài hoặc đức, đấng hoặc người. Thực tế bên kia họ chỉ có một từ để sử dụng.
Thì đây mới gọi là Vô Lượng Nghĩa Xứ, ngôn ngữ khi đến Việt Nam rồi thì là như vậy, phơi bày ra tất cả bộ mặt thật của tâm ý trình độ qua ngôn từ.
Thì ngôn ngữ chữ viết có đây là một sự nhân duyên kết hợp vô cùng hoàn hảo mới ra được ngôn ngữ như hiện nay, nó vượt lên trên các tư duy thông thường của con người. Nó là sự hộ niệm vô hình vô tướng khó diễn bày của các Đấng Thánh Chúa Sư Tử.
Chúng tôi thì nghe rất lịch sự, bọn tui, tụi tui nghe đỡ hơn. Còn bọn tao, nghe có vẻ hơi ô hợp mà nếu dùng ngôn ngữ này để nói pháp thì nghe có chướng không. Ai mà nghe pháp cho nổi.
Cho nên luôn ý thức để dùng cho đúng văn tự, không phải nói như vậy rồi là nghe thế gian nói gì mình cũng không hiểu đâu. Hiểu hết, nhưng không chấp vào đó. Đó là ngôn ngữ của thế gian, chúng sanh họ thích dùng ngôn ngữ như vậy; họ không nói như vậy nó ngứa miệng, mà mình nghe mà lỡ ngứa tai thì mình nghe mình biết mình hiểu được nó hơn như vậy thôi là được rồi. Thì ngôn ngữ nói tuy nó tục, nó không tốt lành đi chăng nữa nhưng đó là sự thật của các pháp cũng là pháp cho mình thấy biết tư duy mở trí ra thì đều là tốt hết.
- Ê! Sao ông tu hành rồi còn nói mày tao.
Đó, tu ít tu nhiều gì thì cũng hạn chế tối đa những ngôn từ như vậy. Khi nào mà nghe mày tao là biết sắp điên lên rồi đó, tu hành mà hở tí mày tao là tu tào lao rồi đó, tà rồi.
Thì chữ tao này mình thấy đạo lý gì trong đó?
- À, chữ tao này không có ích lợi gì cho việc tu đạo khi mình đem ra sử dụng nó. Chữ tao này làm nhân cái phàm ngã này của mình lên, làm cho bạn lành xa lánh, làm cho mình không có sáng đạo đức được, làm cho mình cục mịch sân si.
Rồi tiếp tục chữ mình; người ta nói “giữ mình” tại sao không nói giữ tôi, giữ ta mà lại là giữ mình. Thân mình cũng là mình, tâm mình cũng là mình, bản thân mình, cá nhân mình.
Thì chữ mình này cái nghĩa đầu tiên tượng trưng cho cái thân mình, mình người trước. Mình người này cũng chính là mình, nhưng mình này lại khác nghĩa với chữ tôi. Vì chữ tôi không mang ý nghĩa của một hình hài nào như là chữ mình, không ai có thể định nghĩa được chữ tôi, nhưng chữ mình thì có thể định nghĩa được, nó có nghĩa thường trụ được ám chỉ nhưng ít ai để ý tới nghĩa thường trụ của nó.
Còn chữ tôi lúc này tạm thời nó là một từ bất định nghĩa, nghĩa vô trụ; từ cái vô trụ mới đi đến thường trụ gọi là thường gọi, rồi từ thường trụ trở về với vô trụ để hiểu biết được tất cả các nghĩa thú trong đó gọi là đủ; thì đây trước mắt nó chỉ là phương tiện để xưng và gọi. Nhưng sự thật nó là phương tiện để tìm ra cái bản tâm thanh tịnh sáng suốt trong tạng thức của mỗi con người.
Bây giờ nói tới một cái nghĩa chữ tôi nghĩa theo văn tự tiếng Việt.
Tại sao chữ tôi này người ta lại sử dụng cho tôi tớ, tôi mọi, bề tôi?
- Cũng là chữ tôi nhưng mình có thích được như chữ tôi tớ, tôi mọi này không? Không ai thích làm tôi tớ này cả; bởi vì sao?.. Bởi vì phải chịu sự sai khiến, bị xem thường, bị coi nhẹ.
Nhưng cái tôi tớ này có tội hay không?.. Xã hội này có quyền gì bắt mình làm tôi làm tớ trong khi mình cũng như bất cứ một ai thôi; hay là vì mình kém phước báu mình phải vì miếng cơm manh áo nơi ăn ở mà phải chịu đựng. Cuộc sống như vậy có giá trị không, cái tôi này có giá trị không?
Có thể có người nghĩ nó có giá trị nhưng giá trị này không phải là giá trị một cuộc sống thật sự; đó chỉ là giá trị sinh tồn.
- Ôi, có chỗ ăn chỗ ở là may rồi.
Khi nào trong xã hội này, chữ tôi này còn tồn tại thì xã hội này còn đau khổ bất hạnh và bất công. Nhưng hoàn cảnh xã hội nó vậy rồi biết làm sao, buộc phải vậy thôi chớ làm sao; kệ, còn mạng còn sống khỏe là được rồi.
- Tôi hỏi anh có muốn được công bằng không?
Có.
Thế gian không phải là nơi nói đến công bằng, xã hội này bao nhiêu hạng người như vậy, tất cả mỗi người đều có một hoàn cảnh khác nhau cùng tồn tại. Công bằng là điều dường như không bao giờ xảy ra thì đó cũng chính là sự thật của các pháp để con người hoặc bất cứ một ai cũng có thể khám phá cuộc sống để mình biết mà tìm đến một bến bờ nào khác.
Bây giờ mình không làm chủ được tâm mình thì công bằng không, mình làm tôi tớ cho lòng tham của mình để rồi mình gây ra những điều tệ ác, mình sân si mình đập phá dành giựt thì mình có phải là tôi tớ không. Lòng phàm nó sai khiến nó sử mình nói bậy làm bậy thì mình có phải là tôi tớ, là nô lệ hay chưa. Muốn công bằng thì phải làm chủ tâm mình thì trên đời không chuyện gì không công bằng hết.
Còn không, thì điều đó chính xác mình là kẻ tôi tớ, một nô lệ. Từ này không bao giờ sử dụng sai. Làm tôi tớ của người thế gian, đó chỉ là hoàn cảnh; mình có thể thoát ra được bất cứ lúc nào nếu có đầy đủ được huệ căn hoặc lúc nào đó, mình đều có thể được bình đẳng. Nhưng mình làm tôi tớ cho cái lòng phàm, mình không dứt được thì muôn kiếp mình là nô lệ, nó dẫn dắt mình đi thọ khổ.
- Khổ cái gì?
Khổ cái tâm, khổ cái thân. Cái lửa tham sân si này nó sanh ra cái ý tôi tớ mình làm nô lệ cũng từ đây.
Bây giờ sống ở xã hội này cũng thế, cái lòng phàm này nó dẫn dắt mình phạm pháp. Mình lo sợ ăn ngủ không yên; mình trốn chạy rồi tới lúc công an họ cũng điều tra được họ truy nã họ bắt mình về thọ án, lúc này mình có đòi công bằng được không. Nhẹ thì họ cải tạo vài ba năm; nặng thì họ nhốt chung thân, không nữa thì họ tử hình; lúc này xã hội họ không chấp nhận được mình nữa rồi, họ không cho mình quyền sống nữa; bởi vì mình sống nữa mình lại tiếp tục làm nô lệ cho tâm ma của mình; thì thế gian như vậy tạm gọi là công bằng. Rồi cũng không ai dám chất chứa mình làm tôi tớ nữa đâu, không ai dám tin tưởng mình nữa, quá nghiêm trọng; rồi cái chết cũng không thể chuộc lại lỗi lầm của mình được.
Thì cũng chính cái thằng nô lệ của lòng tham này đây nó đưa mình vào cõi khổ, nó nhốt tù, nó cách ly, nó tử hình mình.
Thì từ chữ tôi này đây mình thấy vậy chứ nó ghê gớm lắm.
Để mở ra một lối thoát cho tâm mình thì ngay bây giờ mình phải tìm đến một chữ tôi nữa là: Tôi luyện.
Thì chữ tôi trong tôi luyện này có nghĩa là gì: Rèn trong rèn luyện, trau trong trau luyện.
- Rèn cái gì?
Rèn cái tâm, tâm mình bây giờ cứ nghĩ nó như một viên ngọc vậy đó. Nhưng nó chưa được mài, nó bị các tạp chất che phủ hết rồi, nó không được đẹp sáng, nó chưa được rèn cho sáng lên.
Bây giờ để đi tìm chữ tôi này mình phải rèn cái trí, trau dồi cái ý thức mình phải tìm hiểu nghiên cứu các pháp để mình trụ tâm cho vững. Rồi mình thấy tâm mình an lạc nhẹ nhàng mà không có bị ràng buộc, mình không có bị lòng phàm sai khiến nữa, mình biết được mình nên làm gì cho đúng pháp thì tới lúc này viên ngọc trong tâm mình đã trau rồi đó.
Một thuở nọ Đức Phật ở trong núi Kỳ-Xà Quật
Một thuở nọ tức trong tiếng Hán gọi là Nhất thời.
Tại sao gọi là nhất thời?.. Nhất thời này cũng có nghĩa là một thời duy nhất. Tại sao gọi là một thời duy nhất, vì hiện ngay bây giờ cũng là cái nhất thời đó, cái lúc mà mình nghe được cái lời lẽ giải thoát đó cũng chính là nhất thời. Nhất thời này tức là Đức Phật đang nói cho mình trực tiếp nghe đây mà không có phân biệt rằng: Cách đây hai ngàn năm trăm năm, ông Phật ổng ra đời rồi thời đó ổng mới nói kinh này ra.
Nên biết rằng kinh này không phải là kinh không chỉ riêng một mình Đức Thích Ca Mâu Ni Phật nói không thôi, mà kinh này là kinh mà ba đời Chư Phật đều đang nói đã nói và sẽ nói.
Nói bằng cái gì?
Nói bằng chính ngôn ngữ của chúng ta trên phương diện thế gian trước. Có đủ phương tiện ngôn ngữ tức là có kinh này; từ trong cái chữ A B C mình học được từ thế gian pháp nó làm cái vốn có sẵn đó để mình học Phật đạo thì đây cũng chính là nhất thời; nhất thời này là ngay trong cái thời đại hiện đại này đây, ngay trong cái ngôn ngữ Việt Nam này đây, ngay trong cái thế giới đầy đủ các món sự nhân duyên đây mình tu học thọ trì đọc tụng biên chép diễn nói kinh này.
Bây giờ tôi hỏi: Ngày xưa Đức Phật thuyết Kinh Pháp Hoa bằng ngôn ngữ gì?.. Bằng tiếng Phạn cổ xưa. Sau này truyền bá qua Trung Quốc mới dịch ra chữ Hán, từ chữ Hán mới dịch ra tiếng Việt.
Thế thì tại sao mình không đọc kinh này bằng tiếng Phạn, tiếng Hán mà lại đọc bằng tiếng Việt. Ờ, đọc tiếng Phạn tôi không hiểu; tiếng Việt là ngôn ngữ của tôi nên tôi nghe tôi hiểu liền phải dịch ra cho tôi đọc, đó không phải là tiếng mẹ đẻ của tôi nên tôi thấy khó học lắm.
Rồi hỏi bây giờ ông Phật ổng có biết tiếng Việt Nam hay không, ổng có thể nào giảng nói chánh pháp bằng tiếng Việt Nam cho người Việt Nam hay không?.. Sao lại không được. Không có một ngôn ngữ nào đó trót lọt qua mắt được ông Phật cả; tất cả các ngôn ngữ của chúng sanh Phật đều thấy biết hết. Vậy ngôn ngữ từ đâu mà xuất hiện: Từ tâm. Đức phật luôn luôn am hiểu tâm chúng sanh một cách tường tận nhất.
Ủa, nhưng mà các nước Thái Lan, Lào, My-an-mar, Tích Lan những nước Nam truyền sao họ không có Kinh Pháp Hoa. Ngược lại có lẽ họ còn không tin vào kinh này?
Đây là một sự thật không thể chối cãi. Không lẽ thần lực của Phật không đến được đó, sao Phật không cho người độ hóa cho những quốc độ này truyền Kinh Pháp Hoa tới.
- Ổng có lý do của ổng; kinh này nó được diễn bày ra trên khắp thế giới, pháp này là pháp tổng trì nơi các pháp.
Rồi ông nói Kinh Pháp Hoa đã có mặt tại Việt Nam vậy ông đọc ông có hiểu cái gì trong đó không?
Không hiểu lắm; hiểu mơ hồ thôi.
Thì bây giờ tôi mới cho ông thấy cái sự mơ hồ của ông nó đang ở đâu.
Cho nên Kinh Pháp Hoa đã về tới Việt nam mình rồi, đã được Chư Phật hộ niệm rồi, thì tiếng Việt Nam là một thứ tiếng vi diệu nhất; nó là ngôn ngữ đích thị có thể khai mở ra một con đường luận giải đầy đủ nghĩa lý của tất cả các pháp từ thế gian cho đến xuất thế gian. Tiếng Việt chứa đầy đủ tinh hoa của hết tất cả các nghĩa lý của tiếng Phạn cổ xưa đó; có thể hiểu được hết tất cả các nghĩa lý của bộ Hán tạng bên Trung Hoa.
Không có nước nào có thể biến kho Hán tạng thành tiếng Việt một cách khác lạ và hoàn chỉnh như tiếng Việt mình. Mỗi ngôn ngữ đều có một xứ mệnh riêng của nó; tiếng Hàn, tiếng Nhật cũng đều như thế.
Nhưng riêng tiếng Việt Không có một chữ Hán nào người Việt Nam không hiểu một cách triệt để mà học thì dễ dàng như thế. Nhưng ngược lại để tiếng Hán có thể định nghĩa được tiếng Việt thì dường như rất khó, kỳ lạ là như vậy. Rồi muốn hiểu được tiếng Phạn thì tiếng Hán là ngôn ngữ đầu tiên chúng ta phải am hiểu thông qua tiếng Việt; tức là lấy tiếng Việt để học tiếng Hán.
Bây giờ tôi đố ai mà dịch được cuốn sách quý vị đang đọc đây đem dịch ra được tiếng nước ngoài nào đó một cách tương đối đủ nghĩa tôi muốn diễn đạt thôi thì tôi nguyện dập đầu bái thầy.
Cho nên ai muốn học pháp này thì phải học tiếng Việt, tiếng Việt này mới học được môn Vô Lượng Nghĩa Xứ.
Rồi các kinh điển Đại thừa của chúng ta đều dựa trên tiếng Hán mà phiên dịch ra chứ không phải từ tiếng Phạn, còn tiếng Hán thì nương vào tiếng Phạn để phiên dịch. Bởi vì tiếng Việt nếu trực tiếp dịch ra từ tiếng Phạn thì không bao giờ được rõ nghĩa một cách triệt để; không bao giờ có được cái nghĩa vi diệu của Vô Lượng Nghĩa Xứ mà Chư Phật dày công biên soạn sắp đặt.
Bởi vì người Việt Nam có đầy đủ bộ phiên âm Hán Việt, rồi tạo ra Hán Nôm, rồi Quốc Ngữ mà khác hoàn toàn âm tiết với ngôn ngữ của người Trung Hoa.
Thì ngôn ngữ Phật đạo của tiếng Việt bản thân nó đã chứa đựng tất cả tiếng Hán trong đó; mà tiếng Hán thì được dịch trực tiếp từ ngôn ngữ Phật đạo của tiếng Phạn.
Giờ cũng giống như tiếng Phật đạo của Nhật Bản họ cũng nương về tiếng Hán mà biên dịch.
Nhưng tiếng Nhật là âm tiết của họ là một chùm âm kéo dài chứ không tương xứng với tiếng Hán; thì đó lại là một dạng Vô Lượng Nghĩa Xứ khác.
Ví dụ tiếng Nhật là: Arigatō; nó có nghĩa là cảm ơn.
Tiếng Trung Quốc là Xièxiè dịch ra tiếng Hán Việt có nghĩa là tạ tạ; tạm gọi là xin tạ ơn, cảm ơn.
Nhưng trên thực tế chữ tạ theo nghĩa Việt Nam có nghĩa là: người ta cho mình cái gì đó mình sẽ tạ lại bằng một thứ gì đó mới gọi là tạ; chứ cảm ơn thì lại khác nghĩa với tạ ơn; mà ơn tức là ân, ân nghĩa. Cảm tức là cảm nhận, cảm thấy cái ơn cho nên gọi là cảm ơn.
Bây giờ chỉ nói tạ tạ, hoặc đa tạ dịch theo sát nghĩa tiếng Việt có nghĩa tạ ơn nhiều.
Mà tạ ơn thì phải khác với cảm ơn chứ làm sao giống được; thì bây giờ phải thấy ở đây tiếng Trung Quốc mình hiểu theo tiếng Việt chứ không hiểu theo tiếng Trung nữa.
Cảm ơn của tiếng Trung Quốc khi dịch ra tiếng Việt nếu luận nghĩa sâu xa là khác hẳn với cảm ơn của tiếng Việt.
Rồi như tiếng Nhật là Arigatō dịch ra tiếng Việt là cảm ơn; thì tiếng Việt với tiếng Nhật dường như nó không liên quan gì tới nhau. Không thể nào dịch theo cái kiểu A là gì, ri là gì, ga là gì, tō là gì được.
Tiếng Nhật cảm ơn thấy có tới bốn âm tiết; lấy tiếng Việt nương theo từng âm tiết để dịch thì không hiểu gì cả. Nhưng tiếng Nhật này vẫn nương nơi tiếng Trung dịch thành một nghĩa xứ của tiếng Nhật, một hệ rất khác.
Cho nên người Việt mình học tiếng Nhật sẽ rất khó; cũng rất phức tạp, khó hiểu. Đây là chưa nói đến phần ngữ pháp văn phong.
Rồi lấy tiếng Việt dịch từ ngôn ngữ tiếng nói của tiếng Trung phổ thông là Xièxiè; bây giờ Xiè nếu không dịch thành chữ tạ thì tiếng Việt cũng không thể nào hiểu chữ Xiè này có nghĩa là gì, vì âm tiết khác nhau hoàn toàn; nhưng nó đã được dịch rồi.
Thì chữ Xiè này nó không liên quan gì đến chữ tạ, mà tại sao mà ai đó có đủ khả năng để dịch nó ra thành một từ đơn âm thuần Việt như thế.
Đó là do đâu?
Do sự hộ niệm của Phật một cách vô hình vô tướng, một đạo diễn đại tài; không ai có thể hay biết được sự hộ niệm vi diệu đó là từ đâu đến. Tiếng Việt mình hoàn toàn có một vay mượn khổng lồ và hết sức tinh tế.
Nhưng để hiểu được biết được hết tất cả các ngôn ngữ tạng pháp để học cái phật lý giải thoát thì tiếng Việt rộng vô cùng. Nhưng nó phải được am hiểu một cách triệt để càng tốt; rồi tiếng Hán Việt, Hán Nôm; rồi kể cả tiếng nói từ tâm thức cho đến bất cứ một âm tiết nào trong tiếng Việt đều có thể đem ta đến con đường hiểu biết các pháp. Bởi vì, mọi thứ đều rất liên quan tới nhau một cách kỳ lạ.
Như vậy mọi thứ phụ thuộc vào những cá nhân, tùy theo sở học sở nguyện thì đều có thể nghiên cứu tư duy để thấy biết được sự vi diệu của các pháp thế gian.
Phật ở trong núi Kỳ-Xà-Quật
Thì như vậy khi mình như thị ngã văn được rồi, tạm thấy được chữ tôi nghe này rồi thì mình liền thấy được Nhất thời Phật trụ Kỳ Xà Quật sơn trung. Tức là: một thuở nọ, Phật ở trong núi Kỳ Xà Quật.
- Mà đã như thị được chưa?
Chưa thì mình phải mở trí ra, đó là cả một lộ trình dài.
Thì bây giờ thấy Phật ở trong núi thì hỏi ông Phật ông là ai, có ai thấy biết ổng không, tin được ổng không?
- Không biết, tôi mới biết ổng qua hình tượng con người tạc ra ở thế gian thôi. Muốn biết ông Phật như thế nào, ông là ai thật sự thì phải tự thân chứng kiến tìm đến cái núi Kỳ Xà Quật coi ổng có ngồi đó hay không rồi thưa chuyện một phen.
Khó quá, tui đâu có nhập định được đâu làm sao mà đến được cái núi Kỳ Xà Quật này mà gặp ổng được. Mình người phàm mắt thịt, tu chưa được gì sao thấy ổng được mà hỏi. Thì mình không thấy được cái núi Kỳ Xà Quật đó, vậy mình có thấy được cái núi Kỳ Xà Quật sờ sờ ngay trước mặt mình đây luôn hay không.
Thế gian này đây cũng là núi Kỳ Xà Quật đây, mình tu trì cũng tu ngay tại đây, Phật cũng ở ngay tại đây, chúng sanh cũng ngay tại đây, thánh chúng cũng ở xung quanh. Toàn thân Như Lai tức là tất cả những kinh pháp lý giải thoát mà Phật đã tuyên bày cũng nằm ngay tại đây, pháp thân của ổng cũng đều nằm trong đó hết.
À, mình đọc tụng thọ trì kinh này mà hiểu được tức là mình đang ngồi nghe kinh ở trong núi Kỳ Xà Quật rồi đây; đã thấy được thánh chúng rồi đây. Mọi thứ ổng đều để sẵn đó hết chẳng qua mình mê mờ quá không thấy biết gì thôi.
- Lúc mới tu tôi không rõ, nhưng kinh này nói rằng lúc này Phật ở trong núi Kỳ Xà Quật là tôi biết tôi tin là núi Kỳ Xà Quật ở một nơi nào đó mà tôi hiểu rằng nó ngay trước mắt tôi mà tôi không nhận ra. Nhưng tôi biết cả cuộc đời của ông Phật, tôi đọc qua bao nhiêu kinh sách tôi cảm thấy cảm phục con người cách sống và sự nghiệp độ đời của ông Phật; từ lúc ổng rời cung vàng điện ngọc, ổng khổ hạnh rừng già cho tới lúc ổng thành đạo. Từ chỗ đó tôi hiểu được phần nào con đường tu, tôi bắt đầu tu miết rồi tôi hành theo những gì kinh sách nói theo cách hiểu của tôi cho đến một ngày kia thì ánh sáng của ổng đã rọi tới chỗ tâm hồn tôi rồi, tôi thấy biết thật sự rồi; không còn mơ hồ nữa, không còn bán tín bán nghi nữa; chắc trực rồi, bất thối chuyển rồi, vi diệu rồi, thỏa chí rồi. Thì chính lúc này chắc chắn cánh cửa ở núi Kỳ Xà Quật của cảnh giới tâm linh sẽ mở ra.
Nơi thành Vương xá cùng chúng đại Tỳ-kheo một vạn hai ngàn người câu hội.
Nơi thành Vương xá là gì: Mình đang sống trong một kinh thành, mà trong kinh thành này nó đầy đủ những món cám dỗ.
Vương xá nào: Vương là vương giả, xá là nhà cửa đường xá.
Rồi ta sống trong thành này ta có gì: Có danh lợi. Hoặc giàu hoặc nghèo đều có danh lợi.
- Ta có chiếc xe đạp, nhà ở tuốt trong hẻm, ngang 5 mét dài 10 mét. Hoặc: nhà ta cao bốn tầng lầu, có một cái tivi to đùng hiệu sony, có dàn âm ly karaoke, ta có cái điện thoại đời mới; rồi ta còn có nhiều bạn gái xinh đẹp.
- Như vậy là vương giả chưa?
Tạm gọi là đủ sống so với thời đại này.
Thì trong núi Kỳ Xà Quật này nơi thành Vương xá: Vương xá này tức là mình đang danh lợi, đang đắm chìm nơi đó. Thì chính nơi trong đó mình vô tình tìm hiểu được thấy biết rằng danh lợi này đã đem lại nhiều đau khổ cho thế gian, tất cả đều chỉ là giả tạm phù du không có bền chắc.
Thì trong thành này có chúng đại Tỳ Kheo một vạn hai ngàn người câu hội tức là gì?
À, giờ mình muốn giải thoát mình tu luyện trong cái thành Vương xá này. Thì mình phải cùng tìm đến một vạn hai ngàn đại tỳ kheo câu hội tức là mình phải thấy biết được mười hai nhân duyên để đến được cái quả vị thanh văn duyên giác bậc đại tỳ kheo như vậy.
Tại sao có mười hai nhân duyên mà bây giờ lại nói thành tới mười hai ngàn; tức là trong mỗi một nhân duyên này nó sanh ra cả ngàn nhân duyên khác, lấy một ngàn nhân duyên đó nhân cho mười hai gọi là mười hai ngàn đại tỳ kheo.
Mười hai nhân duyên là gì?
Mười hai nhân duyên này có nhiều nghĩa và cũng rất sâu rộng. Trước khi mình tìm hiểu mười hai nhân duyên thì mình tìm hiểu đại tỳ kheo là gì?
- Là những người rời bỏ quyến thuộc thế gian, rời bỏ căn nhà thế tục, rời bỏ tâm thế tục tu tập để rõ biết tất cả mười hai nhân duyên.
Thế nào là rời bỏ căn nhà thế tục?
Căn nhà thế tục này có sáu cánh cửa gồm: Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý căn tiếp thu tất cả các pháp. Từ các thiện pháp cho tới các bất thiện pháp, từ các pháp thanh tịnh cho tới các pháp nhiễm ô, từ các pháp thế tục cho đến các pháp xuất ly.
Ví dụ như nhãn căn tức là cái nhìn của mắt:
- Mắt có nhiễm ái không, nhãn căn có thanh tịnh không, có được sử dụng như một phương tiện chính đáng tu hành Phật đạo hay không.
Mắt ưa liếc ưa nhìn rồi nó đắm, nó chìm rồi nó nhiễm vào cái tạng thức; tiếp tục điên đảo vọng tưởng không ngừng, nó dẫn dắt mình đi làm cái việc tà kiến thì chính cánh cửa nhãn căn này nó đã dẫn ma chúng vào nhà, nó đốt cháy tâm can làm xa rời các thiện pháp; chim chuột nó đục khoét, bụi đất dính đầy, nó cướp đi cái bản tâm thanh tịnh của mình.
Thì bây giờ mình tu rồi mình không có dẫn giặc vào nhà để nó cướp phá nữa.
- À, có đẹp có xấu thì cũng có vô thường. Những gì ta thấy đây chỉ là những thứ giả tạm mà thôi, không thể nào bền chắc được. Đẹp thì ta biết đẹp, xấu thì ta biết xấu ta ghi nhận rồi; không vì cái đẹp hay xấu này mà làm tâm ta vấy bẩn. Ta may mắn có được được cái nhãn căn này, vậy nếu ta không tinh tấn trì tịnh giới thì biết đâu một ngày nào đó cái nhãn căn này cũng mất luôn.
Chính từ cái ý niệm này mình thấy biết được vô minh.
Muốn thấy biết được vô minh thì nhãn căn của mình phải thanh tịnh, mình phải bảo vệ được cái nhãn căn này, tự tại tại nơi nhãn căn mới viễn ly điên đảo vọng tưởng thì tự nhiên pháp thân thanh tịnh sẽ hiển lộ, cảnh giới trang nghiêm cũng sẽ hiển bày. Lúc này mình mới thâm nhập được tạng pháp báu vi diệu của các Phật là điều chắc trực.
- Ngoài nhãn căn ra; các căn còn lại là tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng đều như vậy; cũng đều phải tự tại.
Bởi vì mình đâu có bị mù, điếc; không phải mình bảo vệ nhãn căn này là mình đóng các căn lại luôn đâu, không nhìn cái gì luôn đâu. Cố ý nhìn hay vô tình nhìn rồi thấy biết cũng đều là nhìn; cố ý nghe, nếm, ngửi vô tình hay cố tình rồi thấy biết thì cũng đều là pháp. Nhưng cái nghe nhìn nếm ngửi này có phải xuất phát từ cái ý thanh tịnh hay không, có hướng đến tri kiến giải thoát hay không.
Cái mống tâm mống ý anh không thanh tịnh, cái ý anh bị tà niệm nó dắt mà anh không có cái pháp chánh nào để thay thế điều phục tâm mình thì các căn của ảnh đều nhiễm.
- Các căn nhiễm rồi thì sao?
Sẽ sanh ra uẩn, cho nên gọi là uẩn căn.
- Uẩn tức là gì?
Là dơ, là uẩn khúc, bị chặn, nặng nề, bó buộc, nhiễm, khó chịu.
Cho nên trong Tâm kinh bát nhã có một câu: Ngũ uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách.
Tức là các căn của mình đều thanh tịnh, đều không có nhiễm uẩn nữa, đều tự tại nơi các pháp; chứ không phải không có mắt tai mũi lưỡi thân ý; hiểu như vậy là hoàn toàn sai lầm. Mình vẫn được quyền sử dụng mắt tai mũi lưỡi thân ý để hành đạo đối diện với tất cả các hoàn cảnh dù thuận hay nghịch, nhưng các căn hoàn toàn không có nhiễm tục, không có sanh ra cái ý bất thiện tà kiến.
Nhìn cứ nhìn nhưng mà không nhiễm, các căn đều có thể sử dụng nhưng mà không nhiễm tức là độ nhất thiết khổ ách. Tức là không còn khổ vì các căn này nữa; không còn bức rức, không còn tham muốn chật vật đấu tranh nữa; mọi thứ đều nhẹ nhàng như không. Đầy đủ cái trí tuệ tự nhìn nhận các pháp, đầy đủ thần lực để thọ trì tâm pháp một cách tự tại không hề sợ sệt.
Ví dụ:
Tháng trước có một cô gái rất là xinh đẹp đến gặp tôi; giàu có đài các, thua tôi hai ba tuổi mà con nhà gia thế; cô đó rất là có cảm tình với tôi nữa, rất hay lui tới; hoặc là cổ không thích thân thiện với tôi nhưng tôi vẫn rất thích cổ.
- Đó, khởi lòng phàm chưa, khổ vì cái con bé này chưa, tự tại chưa, ma chướng kéo đến chưa?
Đâu phải do con bé này nó xinh đẹp quá mà mình khổ vì nó đâu, lúc chưa gặp nó mình đâu có thế; vì các căn của mình nó nhiễm ý bất tịnh, mình nhiễm sắc tướng của người nữ này. Mình nói, do con bé đó nó đẹp quá tôi thấy nó rồi tôi mê nó cho nên tôi đang khổ tâm.
Sao lạ vậy, người ta đẹp thì kệ người ta chứ mắc chi mình khổ.
Giờ nằm nghĩ:
- Người đâu mà đẹp quá, dễ thương quá, tốt với mình quá; thôi mình không tu nữa đâu, chắc là hoàn tục quá, tu tại gia cũng được mà. Nghĩ tới đây rồi thì tu cái gì nữa, giáo hóa ai nữa.
Rồi khuya đến:
- Tít tít. A, tin nhắn.
Dạ, thầy ngủ chưa?
Đó, tới đây là bể khổ đón đầu rồi đó, cắn câu rồi, không cẩn thận thì từ thầy chuyển sang anh nó nhanh lắm; bến sanh tử rộng mở rồi đó, thoát không được đâu. Con người có quyền mưu cầu hạnh phúc; thì đây cũng là mưu cầu hạnh phúc thì có chánh đáng hay không.
- Chỗ này không thể nói là chánh đáng hay không chánh đáng. Đó là căn lực trí lực tâm lượng của mỗi người mỗi khác. Chí nguyện của tôi chưa có rõ ràng, tôi chưa xác định được mục tiêu thực sự của đời mình, nên tôi đã đón nhận tục pháp đó; tôi sẽ tiếp tục lộ trình cuộc đời bình thường của mình, tôi tự chịu trách nhiệm với tất cả những gì tôi đã làm. Mặc kệ tôi, đây là con đường tôi chọn.
Thôi; nếu đã nói vậy thì tôi cũng không cản ông được đâu. Vì sao?.. Vì ông không có đủ phước trí để nhìn ra sự thật của cuộc đời, ông không có cái ý chí mạnh mẽ để cầu cái pháp giải thoát thì không ai khuyên được ông.
Rồi tại sao mình không nghĩ:
- Ừ, cô này có phước tướng; phước thế gian cũng nhiều. Đã đến đây với ta rồi ta sẽ dùng cái tâm pháp trang nghiêm thanh tịnh ta giáo hóa cho đạo giải thoát.
Rồi thêm một ví dụ nữa:
Có người kia giới thiệu cho mình cô này rồi buổi chiều nay tới gặp mình.
Bấy giờ có một cô nữ mà cổ xấu quắt xấu quơ luôn, nhưng mà tuổi cũng trẻ, nhìn tướng khổ; lúc này cổ mới vào cổ gặp mình. Mình nhìn thấy mình thất vọng liền, mình trông mặt bắt hình dong.
Đó, mình thấy cổ xấu quá mình nghĩ gì?
- Trời, bà này sao xấu mà nhìn khắc khổ vậy, nhìn thấy bả là thấy phiền não phiền toái rồi. Tưởng đâu tới giúp ích kiếm chác được chút gì, ai ngờ. Rồi mình cũng ra tiếp chuyện qua loa mình ngồi với bả là thái độ mình không ưa rồi đó, không muốn giao du rồi đó.
Ủa, trên đời có người đẹp người xấu là chuyện bình thường thôi chớ có gì đâu mà ngạc nhiên. Người đời không nói, ông là người tu rồi ông còn phân biệt, ông mới nhìn mặt người ta thôi ông còn khinh khi người ta thì ông đâu phải là người tu.
- Tôi đâu có khinh khi ra mặt đâu?
Ông đâu có phiền toái ra mặt nên đâu có ai biết, cho nên:
- Mình ngồi một chập mình nghe cô này cổ tới cổ nói muốn cúng dường mấy chục triệu gì đó để công đức cho chùa xây dựng là tự nhiên mắt mình nó sáng quắc ra, thấy người ta phát tâm tự nhiên ông tỉnh người ra, thái độ thay đổi liền. Lúc này tự nhiên pháp ở đâu từ trong miệng nó tuôn trào ra như mưa lớn, trí huệ tự nhiên ở đâu nó phát sanh ầm ầm mình hoan hỷ nói pháp, tự nhiên đạt được cái cảnh giới không chướng ngại.
Nói tới đây rồi có thấy được nguyên nhân của vô minh chưa, vì cái gì ông nói pháp. Đó, hồi nãy ông nhiễm sắc; bây giờ ông nhiễm tài. Ông tu gì mà nhiễm tùm lum vậy ông.
Vô minh ở đây là phải thấy được cái mục đích tu hành của mình trước đã; xác định được chưa, tâm lực vững chưa, trí lực thông suốt chưa, đạo lực đủ chưa.
- Thì bây giờ phải làm sao?
Cô này cổ xấu thì mình biết cổ xấu thôi, xấu hay đẹp cũng chỉ là hình thức bên ngoài thôi mà; quan trọng là tâm thức chứ hình thức cũng đâu phải là tất cả. Phật nói rồi: Sắc tức thị không mà; tất cả người nữ là mẹ ta, tất cả người nam là cha ta. Nói như vậy nhưng người thế gian đều nhiễm sắc tướng hết, chưa thấy ai không nhiễm hết.
Đó, nói nghe nhẹ nhàng nhưng đâu dễ để cho nhãn căn mình trang nghiêm thanh tịnh mình không có phân biệt sang hèn đâu; cho nên phải có trí giải thoát, cái đức độ lòng từ tâm để mà trụ pháp.
Đó, cứ đặt câu hỏi như vậy rồi tự mình kiểm chứng tâm mình cho thật rõ.
Vậy giờ mình học đạo để làm gì?
Để đi tìm cái thằng vô minh; chính cái thằng vô minh này giam mình trong bể khổ, giam mình trong bóng tối, tâm tư mình u ám, thân mình bất an.
Mình không có thấy được con đường sáng đẹp bao la trong tất cả các cảnh giới, mình sống buông theo thế tục.
Thằng vô minh này nó tồn tại khắp mọi nơi, thậm chí khi mình ngủ rồi mà nó vẫn còn thức; trong tích tắc là thằng vô minh này nó ghé thăm nó ở luôn trong đó rồi.
- Có muốn lôi đầu cái thằng vô minh này ra nữa không?
Có năm thằng: Thằng tham tiền tài, thằng tham sắc, thằng tham danh vọng, thằng tham ăn, thằng tham ngủ.
Đối với người tu mình đã từ bỏ cha mẹ, nhà cửa ruộng vườn rồi còn năm thằng này đã từ bỏ hết chưa?
Đâu có từ bỏ thằng nào đâu; nếu thực sự không dính dáng mà tự tại với năm thằng này thì đâu còn cái gì để tu nữa, chắc giải thoát rồi, thánh tăng rồi. Còn trường hợp thứ hai nhiều người người ta có thể sẽ nói là: ông này đầu óc có vấn đề.
- Thứ nhất mình tìm hiểu tiền dùng để làm gì?
Là phương tiện có giá trị để trao đổi buôn bán vật chất trong xã hội. Mình cần cái gì mình có tiền cứ lấy tiền ra mua là được hết. Muốn thờ Phật thì cũng phải có tiền mới đi mua Phật được, mới đúng ý của mình.
Bây giờ thầy nói: Chùa chưa có tượng Phật, có tín chủ nào phát tâm cúng tượng thì phát tâm khoảng một trăm triệu để thầy làm việc phật sự.
Đó, rồi khi có người nghe biết họ đến và phát tâm cúng một trăm triệu như mình nói, như vậy mình có nhận tiền của họ không?
- Có chứ. Nhưng cái tượng đó cả công, chở, rồi vật tư, rồi phát sanh mọi thứ chỉ khoảng bảy chục triệu thôi, giờ mình hét lên một trăm triệu thì đúng hay sai?
Đúng gì nổi mà đúng, sai bét rồi.
Mình nghĩ: Lâu lâu mới có dịp kêu gọi; có người tới cúng dường, nói đúng giá họ cúng đủ thì mình đâu có dư ra đồng nào, lỡ có cần vào việc chi thì đắp vô cũng được, họ cúng xong dễ gì họ cúng nữa. Thôi kệ, cứ hét lên một trăm đâu ai biết đâu mà lo; có dư ra thì mình cũng có cái để dùng vào việc khác thôi có sao đâu.
Thì từ cái chỗ cái thằng tham tiền này nó lòi ra thêm cái thằng lừa lọc. A, mình thấy đi tu lừa người ta dễ quá; người ta tin nghe cái lời nói của mình răm rắp, dễ ăn quá sao không làm.
- Giờ thừa tiền ra rồi làm cái gì?
“ Ráng gom tiền mai ra mua cái iphone đời mới.”
Ra thiên hạ:
- Ô, mấy ông thầy chùa đi cúng hay làm gì nhiều tiền ghê, xe mới, điện thoại đời mới sành điệu ghê; chạy xe lướt lướt phà phà, tu sướng thiệt chớ. Mình đi làm sặc máu nhiều lúc cơm không đủ ăn đây.
Ủa, sao bây giờ đi tu sướng quá vậy, tu cái gì trong đó vậy. Vô chùa thấy tụng kinh không bao nhiêu nhưng thấy ông thì ôm cái máy tính, ông ôm cái điện thoại, ông tụ tập uống trà cà phê cà pháo; thậm chí nhiều ông ngồi ôm điếu thuốc phề phà.
Lạ vậy, đi tu là từ bỏ danh lợi mọi việc thế tục sống đời thanh tịnh làm gương cho đời, chịu khó chịu khổ đâu sao không thấy mà thấy sướng quá nhàn rỗi dữ vậy.
Rồi biết sướng vậy đó nhưng có dám đi vô chùa tu không?
Vô đi rồi biết. Nhưng nếu tu vậy thì tu làm gì?
Đạo giải thoát ở đâu mà tìm, chốn thiền môn ở đâu mà kiếm.
Thôi, thời thế nào rồi, xã hội giờ nó như vậy đó. Biết như vậy ghi nhận là được rồi, nói chi cho nặng nề.
- Nhưng giờ không nói nhưng cũng phải biết; nếu mà chưa biết thì bây giờ nghe cho biết, biết để làm gì?
Biết để một ngày nào đó mình đừng có quá sốc, đừng có quá kỳ vọng rồi thất vọng rồi thành ra mất niềm tin vào đạo cũng như đời; biết để tự soi lại con đường tu của mình, mình có nằm trong số các thành phần đó không. Có nhiều chuyện nó còn kinh sợ hơn thế nữa.
- Tiền tài nó không phải là xấu, ngược lại nó là phương tiện không thể thiếu trong thời đại này.
Nhưng phải biết:
- Cầm một đồng tiền lên phải ý thức được đồng tiền này: nhẹ thì nhẹ tợ lông hồng, nặng thì nặng tựa ngàn cân. Tiền cầm bao nhiêu cũng thấy nhẹ lắm; nhưng người tu mình phải thấy nó nặng tựa Thái Sơn, nó có thể hỗ trợ nuôi thân tuệ mạng này nhưng nó cũng có thể cướp đi tất cả sự nghiệp tu đạo trong chốc lát.
Vậy thì nói mình tu mình cầm những đồng tiền này đây mình tiêu sài vào những mục đích thỏa mãn nhu cầu bản thân, mình hí hửng chìm đắm trong cuộc sống của người thế tục; đồng tiền nó làm mình hoa mắt, mình đánh mất chính lương tâm của mình để mình có thể cầm được đồng tiền thì liệu rằng đời tu mình sẽ đi về đâu.
Bây giờ nói về chữ tiền:
Chữ tiền nó có thể làm mình tiến lên, có thể làm cho mình sướng như tiên, nó cũng có thể làm cho mình trở nên bần tiện; tất cả điều rất gần với chữ tiền này. Chữ tiền này mình phải biết nó như một mũi tên hay gọi là tiễn trong cung tiễn; cái quan trọng nhất là cái ngọn tiễn này sẽ hướng về đâu, hướng về bến giải thoát hay khổ đau đều là do mình chọn.
- Chữ tiền đi với chữ tiến làm sao để dùng nó vào sự tiến thân tu đạo thì làm.
Việc đầu tiên là cất cái chỗ ở tu thờ, mua cơm gạo rau củ; dư ra thì mua thêm kinh sách về nghiên cứu; được nữa thì xây cầu đắp đường, dựng nhà tình thương, cứu trợ xã hội... chỉ có như vậy thôi là tiến tu được rồi.
- Rồi chữ tiền đi với chữ tiên.
Bất cứ một người tu đạo nào đều phải liệu hồn với chữ tiền tiên này.
- Bởi vì sao?
Bởi vì có tiền mua tiên cũng được.
Khi người tu hay đời mà có nhiều tiền rồi, mà các căn khởi nhiễm thì điều gì sẽ xảy ra?
Lúc này tiền là công cụ để đưa mình tới con đường hư hỏng và sa đọa?
- Nên nhớ cõi này là cõi gì?
Cõi ái nhiễm, cõi tham dục, tham nhiễm.
Biết như vậy, khi mình đã sa vào con đường này rồi thì liệu mình có đủ định lực để rút chân ra được không, có còn nhớ tới kinh kệ phật pháp gì nữa không; hay cứ lòng vòng quẩn quanh dùng nhiều biện pháp dối bày mà kiếm tiền thõa mãn tục căn.
- Bây giờ có nhiều tiền, biết dỗ ngon dỗ ngọt một chút thôi là nữ nhân nó theo nhiều lắm; thậm chí cứ tung tiền ra là được hết. Già xấu, thậm chí bệnh sắp chết nó cũng theo; mười tám đôi mươi đều có hết, trẻ trẻ hoặc không già lắm mà có tiền thì nó theo càng đông.
Làm gì thì làm nhưng nếu đã tu đạo rồi thì nên nhớ một điều: Coi chừng chết không có đất dung thân.
Mọi thứ cám dỗ đều đầy rẫy khắp nơi, mạng lưới internet, công nghệ xã hội nó còn nguy hiểm hơn cả hố mìn chông gai; nó nguy hiểm cho nội tâm của mình, nó nguy hiểm cho cái chí nguyện tu đạo còn dang dở của mình không có đủ sức để đối diện với các ma chướng.
Nếu mình không đủ trí lực để giải thoát, để vượt thắng được các chướng ngại mà các căn mình đã nhiễm ô lún sâu vào đó; nó sẽ làm cho mình sa vào lưới khổ thế tục, làm cho tâm tư mình ti tiện, nhơ nhớp kinh tởm và kết cục tồi tệ.
Biết nói như vậy là khó nghe, nhưng đây là sự thật của các pháp thì mình phải đối diện với nó; đối diện với bộ mặt thật cũng như bộ mặt đen tối nào đó trong mỗi một tâm thức con người để tìm ra cái phật tánh ẩn chứa trong đó.
Thì trong mười hai nhân duyên thì cái duyên đầu tiên là: Vô minh duyên hành. Pháp tu là: Vô minh diệt thời hành diệt. Vô minh diệt thời mười một duyên còn lại cũng tự diệt; cuối cùng không còn một nhân duyên nào nữa tức là giải thoát, trở về không. Tức là đắc thánh quả, bậc La hán hoặc Duyên giác; Duyên giác tức là chứng biết được tất cả các duyên sanh này. Nếu duyên đã sanh thì pháp có sanh, cái duyên của chúng sanh tức là các pháp chấp nhiễm; kết quả cuối cùng của duyên này là lão tử ưu bi khổ não.
Chính cái vô minh là cái duyên đầu tiên đưa chúng sanh đi tạo nghiệp; cái vô minh này mình phải tìm hiểu qua từng ngày từng giờ, từng phút giây, từng suy nghĩ và từng hơi thở. Muốn diệt được nó mình phải thấy được các pháp thế gian, khi thấy biết được rồi phải đối diện và điều phục nó; cho nên có pháp thế gian nên có pháp giải thoát.
Nói cho dễ hiểu:
Có tiền tài, có người quyến rũ bằng danh lợi hay sắc đẹp cho nên mới có cái để vô minh hoặc trí huệ xuất hiện. Có xuất hiện mới có cái để diệt, có cái để từ bỏ, có cái để kiểm chứng tâm pháp, có cái diệt cho nên mới có cái đắc. Đã diệt được hết rồi thì không còn chỗ đắc cho nên gọi là vô đắc.
Ví dụ:
Anh không ưa tôi anh chọc tức tôi, tôi cũng tức mà là tôi tức cười chứ không phải tức giận, tức cười cũng là một cái tức; cười nhiều quá coi cái bụng nó có tức nó đau lên luôn không; tôi tức cười nhưng tôi không phải là coi thường ai. Như vậy: Nếu tôi không nổi giận thì tôi có cần diệt cơn giận hay không?
Thì bây giờ vô minh chính là cơn giận của anh; khi anh giận lên anh sẽ nói và làm những điều tồi tệ có thể sẽ gây hại cho người khác hoặc chính bản thân anh thì đó gọi là sân; sân si nó đi chung với nhau, thằng tham nó cũng âm thầm ở trong đó.
Khi một người nổi sân, anh ta sẽ nói chuyện và hành động một cách mất tự chủ; cho nên anh phải có pháp nhẫn để chống chế.
- Giờ nay anh ta thấy cơn giận là điều không cần thiết, anh điều phục được các căn làm cho không có nhiễm sân.
Anh không bao giờ nổi sân lên thì không có hành động của một cơn giận; đây cũng gọi là vô sanh pháp nhẫn.
- Thì đây cũng chính là một khía cạnh của vô minh diệt thời hành diệt. Để có thể đạt được rốt ráo vô minh diệt thời hành diệt cũng là một đều khó vô cùng.
Khi anh diệt được vô minh rồi thì sao?
Thì cái trí tuệ nó phát sanh, thì từ cái trí này mới đi đến đại trí.
Bởi vì sao ?.. Bởi cái vô minh của chúng sanh quá lớn, quá sâu chặt. Nhưng dù nó có lớn tới đâu đi chăng nữa nó cũng xuất phát nằm trong các căn giới của anh thôi. Giờ tu rồi, các căn tánh của anh phải lần thông đạt sáng tỏ thì nhất quyết cánh cửa đạo cũng sẽ lần mở ra.
Tại sao gọi là sáng tỏ?
Gặp bọn côn đồ, anh có dám sân si với nó không?
Thôi, nhịn trớt cho rồi; nhún nhường cho rồi cho qua chuyện.
Rồi gặp người yếu thế hơn anh là anh ỷ thế anh không phải sân si chi nhưng anh cũng chuyên đi ăn hiếp người ta, thì đây cũng là một cái nguy hiểm.
Thì làm sao đó, tất cả các duyên vô minh này điều phải thấy biết để mà soi rõ phật trí vào đó thì đạo tâm mới sáng, trí giải thoát mới sanh.
Các vị đó đều là bậc A-La-Hán, các lậu đã hết, không còn phiền não, việc lợi mình đã xong dứt sự ràng buộc trong các cõi tâm được tự tại.
Rồi đây những bậc mà thấy biết vô minh và thông đạt được mười hai nhân duyên này rồi thì những vị đó đều là bậc A La Hán.
Không cần biết anh tu thế nào, nhưng anh đã thấy biết được vô minh, từ chỗ thấy biết này anh tu tập anh không có sanh ái hữu duyên nhiễm này nữa thì anh trở về không.
- Không còn cái gì?
Không còn các lậu; cũng tức các lậu đã hết. Mà các lậu đã hết thì không còn phiền não.
- Giờ các lậu nghĩa là gì?
Lậu tức là đồ dỏm, là giả dối, là giả tạo, là lén lút...
Mình tu là làm cho các lậu này dứt sạch không còn nữa. Còn không?
Còn nhiều lắm, chưa nói không được đâu.
Trước đó không biết, từ ngày mình tìm hiểu rồi phát tâm tu đạo một điều đơn giản là mình có thật là tu thật lòng thật dạ chưa, có dám một lần nào đó đối diện với con người thật của chính mình chưa; danh lợi tiền tài sắc đẹp đó có trụ vững được bao lâu. Hay trong khoảng sát na bị nó cám dỗ rồi buông theo luôn mất rồi. Còn phiền não ray rứt vì nó không, còn bất an bồn chồn vì nó không, còn mưu toan gì nữa không.
Đừng nói không; khó tin được. Giờ hãy đào sâu tâm thức của mình ra, mình đừng có tự lừa dối mình nữa; nếu không bị cám dỗ lay động tại sao tới giờ này cũng chưa sáng đạo, tới giờ này mà tâm linh cũng chưa có mở mang được gì.
Thì từ cái tự lừa dối này nó sanh ra cái gian dối rồi giả dối tất cả các lậu.
Đó, các lậu tâm đó phải thấy biết. Thấy biết rồi thì từ nay tu thật, làm một người tu đạo thật sự. Rồi lỡ tôi tu có chưa đạt đi nữa thì tôi cũng dám thừa nhận cái lỗi của mình một cách thẳng thắn để tôi từ bỏ nó thì đó cũng là bãn lĩnh của một con người nam nhi; tôi nhất quyết ý thức được rằng cái sự mà còn gian dối này sẽ đưa tôi đi vào con đường đọa lạc và khó rút chân ra được thì đời tôi coi như hoang phế; công phu hành trì cũng chỉ là đồ dỏm, giả danh.
Giờ mục đích của người tu là làm cho các lậu này không còn nữa; các lậu không còn nữa thì cũng không còn phiền não thế tục nào có thể nhiễu loạn được tâm trí mình nữa thì tới lúc này như trong kinh đã nói tức là: Việc lợi mình đã xong.
Thì phải biết rằng dứt được tất cả các lậu, tất cả các phiền não không còn nữa tức là làm lợi cho mình đã xong.
- Việc lợi đó là gì?
Dứt sự ràng buộc trong các cõi tâm được tự tại.
Tức là dứt sự ràng buộc của nhãn giới, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý thức giới. Từ các giới này mới sanh ra tất cả các cảnh giới địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, trời, người, a tu la... cho đến giải thoát.
Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý cái giới đó còn bị ràng buộc hay không; cái gì ràng buộc?
Từ cái lậu tâm này sanh ra tất cả các bất thiện nghiệp, từ các bất thiện nghiệp này sanh ra tất cả các phiền não ràng buộc của thế gian.
Từ các lậu tâm ràng buộc này sanh ra các uẩn căn, các uẩn căn này sanh ra các cảnh giới của luân hồi lục đạo.
Giờ người tu, tu là để dứt bỏ tất cả các lậu tâm thì không còn phiền não để dẹp nữa. Không còn phiền não để dẹp thì không còn ràng buộc, không còn ràng buộc thì tâm được tự tại.
- Làm sao để tâm được được tự tại?
Lại phải tìm về cái gốc rễ là từ thằng vô minh.
Cái vô minh này ban đầu chưa có gì để ràng buộc, cũng chưa có gì để giải thoát, chưa có có gì để nhiễm.
- Nhưng từ đâu mà có cái để nhiễm?
Tức do sáu căn nhập với 6 trần bên ngoài là: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; trong mười hai nhân duyên gọi đây là: Danh sắc duyên lục nhập.
Sáu căn ban đầu vốn thể tánh của nó là thanh tịnh nhưng do tiếp xúc với sáu trần cho nên sanh ra tất cả các pháp thế gian.
Ví dụ: Khi mắt mình tiếp xúc với danh sắc tức là nhìn thấy sắc đẹp của một cô gái nào đó đi.
Ví dụ mình như một đứa trẻ con ba bốn tuổi gì đó khi thấy một cô thiếu nữ rất là xinh đẹp, lúc này nó nghĩ gì?
- Ừ, nó có biết cô này đẹp không?
Thì lúc này từ trong vô minh, cũng tức là từ trong bổn tánh thanh tịnh ban đầu chưa có khởi niệm yêu thích thì làm gì có cái để nhiễm. Bổn tánh lúc này vốn là thanh tịnh, nhãn căn vẫn còn thanh tịnh cho nên nó nhìn nó biết vậy thôi chứ nó không có phân biệt ai đẹp ai xấu hết; ai đối xử với nó tốt, nó cảm thấy an toàn thì nó mới chơi.
Nói thì nói như vậy nhưng từ trong bụng mẹ là sáu căn đã nhập với sáu trần rồi, nhưng giai đoạn này mới là giai đoạn đầu đang hoàn thiện một hình hài cũng như nghiệp thức; không có ý thức biết được nó ra làm sao nhưng mình vẫn đang tồn tại thì lúc này cũng chính là vô minh, nhưng cái vô minh này là cái vô minh của tự nhiên, nó có cái trí của tự nhiên; khi mà chưa hình thành được tất cả các căn.
Bây giờ hình hài đó lớn lên một chút thì cô đẹp mấy thì đẹp, bế nó lên trên tay hôn nó vẫn la làng thôi, khóc nó vẫn cứ khóc sướt mướt nó đòi mẹ thôi, nịnh cưng nó nó cũng không chịu.
Thì từ chỗ này nó chưa hấp thụ đủ pháp thế gian để nhận biết thì nó phải sử dụng cái trí tuệ tự nhiên để nhận biết. Một thời gian sau khi nó càng lớn hơn nó có dịp tiếp xúc nhiều thì đâu còn ai hành xử với nó như vậy nữa, nó tự học hỏi hoặc tự tìm hiểu lần thì chính lúc này các căn mới bắt đầu lần nhiễm theo một giai đoạn mới.
Khi nó càng đủ trí thế gian rồi theo duyên cảnh nó càng nhiễm rồi biết đâu tới một ngày nào đó nó thấy đời đau khổ quá, hoặc tự nhiên nó thích nó nghe đâu có con đường giải thoát giờ nó muốn tìm hiểu rồi tu theo để từ bỏ cái lối sống thế tục nó không ưa để đến cửa giải thoát thì sao.
Giờ ngồi tu rồi đó; tu thì tu nhưng vẫn phải tiếp xúc với sáu trần chứ đâu có xa lánh được đâu. Đã giải thoát đâu, đâu phải xuống tóc là phiền não cũng rụng theo luôn đâu; đó chỉ là tướng pháp thế gian là tôi biết anh đã đi tu rồi thôi, đừng có chấp vô đó. Còn anh tu được gì, tu tới đâu thì còn phải coi hỏi lại các căn của anh.
Tu là anh phải tu trong căn nhà sáu căn của anh kìa, coi thử trong nhà của anh chứa gì trong đó; vô minh có ăn sâu vào tiềm thức không. Có trang nghiêm được pháp thân lành mạnh chưa thì phải tôi luyện nghiên cứu coi lại cái cõi lòng mình đã được cái gì rồi, từ tâm thô cho đến tâm vi tế đều có thể sanh ra tất cả các nhân duyên bất thiện cho đến ưu bi khổ não đều phải cẩn trọng.
Tên của các vị đó là: A-Nhã Kiều-Trần Như, Ma-Ha Ca-Diếp, Ưu-Lâu-Tần Loa Ca-Diếp, Dà-Gia Ca-Diếp, Na-Đề Ca-Diếp, Xá-Lợi-Phất, Đại Mục-Kiền Liên, Ma-Ha Ca-Chiên-Diên, A-Nậu Lâu-Đà, Kiếp-Tân-Na, Kiều-Phạm Ba-Đề, Ly-Bà-Đa Tất-Lăng-Già-Bà-Ta-Bạc-Câu-La, Ma-Ha-Câu-Hy-La, Nan-Đà, Tôn-Đà-La Nan-Đà, Phú-Lâu-Na, Di-Đa-La-Ni-Tử, Tu-Bồ-Đề, A-Nan, La-Hầu-La v.v… đó là những vị đại A la-hán hàng tri thức của chúng.
Tên của những vị này là ai: Những vị hộ Phật đạo.
Khi đức Thích Ca Mâu Ni Phật ra đời những vị này cũng ra đời, cũng tu đạo và đạt được một trình độ giải thoát. Mỗi vị đều có một cái tên cũng như sứ mệnh và trọng trách khác nhau, nhưng đều có chung một nhiệm vụ là trợ cho Phật đạo thường trụ nơi thế gian.
Cho nên khi một vị Phật ra đời mà không có những vị này thì liệu có Phật đạo được hay không; không có người thưa hỏi, không có người chịu thực tu giải thoát thì Phật ra đời có ích gì. Tất cả tam tạng kinh tạng Phật thuyết cho ai nghe, ai lưu truyền; thì ngay đây tất cả các hàng trợ Phật đạo đều phải ra đời; Tiểu trí cũng có, đại trí cũng có; thuận theo cũng có, mà nghịch theo cũng không thiếu gì, tất cả các hàng ngoại đạo cũng đồng sanh một lúc.
- Như vậy để làm gì?
Để đầy đủ tất cả pháp, đầy đủ tất cả các thí dụ phương tiện để nói pháp chỉ bày cho tất cả các hạng người.
Thì bây giờ mình tu mình phải thấy biết được mình là hạng người nào chưa.
Rồi giờ mình tìm hiểu ông A-Nhã Kiều-Trần Như này là ai; với những vị ngồi đây là ai, mấy ổng với ông Phật có nhân duyên như thế nào, hoàn cảnh như thế nào, cuộc đời ra làm sao; tại sao ổng lại ngồi đây câu hội, mấy ổng như thế nào mà được xếp vào hàng A La hán thượng thủ?
Thì bây giờ trước hết mình phải tìm hiểu qua kinh điển.
À! Ông A-Nhã Kiều-Trần Như này trước đây là một đạo sĩ Bà la môn từng là thầy dạy học lúc Đức Phật còn làm thái tử; rồi đến lúc ngài rời bỏ mọi thứ để tìm đến con đường tu đạo, cầu học với nhiều vị đạo sư nhưng vẫn không thỏa nguyện được cho đến khi Ngài đến khu rừng tại bồ đề đạo tràng luyện tu khổ hạnh. Lúc này có A Nhã Kiều Trần Như dẫn theo bốn vị đạo sĩ khác theo Phật khổ hạnh tại đây.
Sau này khi Phật sắp thành đạo thì năm anh em Kiều Trần Như mới bỏ đi rồi tới Vườn Lộc Uyển tức Vườn Nai gần sông Hằng cũng là gần nơi thành Ba La Nại cách đó hơn trăm cây số để tiếp tục tu luyện riêng.
- Tại sao năm anh em phải bỏ đi, mà tại sao không đi đâu mà cứ phải đi tới đây?
Đây có phải là một sự kiện hay một sự thị hiện.
Tại sao Phật không chuyển pháp luân tại bồ đề đạo tràng mà phải để năm anh em tới tận đây, có phải vì lý do xích mích trong vấn đề phương pháp tu tập với Đức Phật hay một sự hiểu lầm nào, tại sao Phật biết được năm anh em ở đó mà đến, tại sao cả trăm cây số mà Phật vẫn lặng lẽ một mình đến tìm độ cho năm anh em Kiều Trần Như đắc thánh quả?
- Tại sao mấy anh em nhà ông này nghe có một bài pháp Tứ diệu đế thôi, chưa thực hành gì hết; giỏi lắm là mới hiểu thôi mà trong tích tắc đắc thánh đạo nhanh vậy. Thì đây không phải một sự thị hiện thì là gì; cảnh giới này khó nghĩ khó bàn.
Thế là Phật có năm vị đệ tử đầu tiên chính là năm anh em Kiều Trần Như.
- Rồi nói khi chưa thành đạo, Phật có đệ tử nào không?
Không. Lúc Phật tu với đạo sĩ Uất Đầu Lam Phất ngài cũng đạt được Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ rồi, trình độ cũng gọi là thượng thừa được mọi người tôn kính rồi sao ngài không nhận đệ tử.
Rồi bây giờ mình xét lại mình coi; đã tu được gì rồi.
- Đó, nhận đệ tử cho nhiều vô; cúng kiếng chạy sô cho nhiều vô, xây dựng cho nhiều vô, mua sắm cho nhiều vô, lướt web cho nhiều vô, nhắn nhít cho nhiều vô, nói đông nói tây cho nhiều vô. Nhưng lòng phàm mình chưa dứt, không làm được tấm gương sáng; không làm chủ tâm ý mình để tham nhiễm ái chấp dính chặt vô đó mình nặng nề vui sống trong đó thì liệu rằng sự tu đó sẽ đưa bản thân đi về đâu, đưa chúng sanh đi về đâu?
Thì đây trong này chắc chắn có những điều mật nghĩa nào đó, một nghĩa lý nào đó mà chưa chắc kinh sách đã ghi lại.
- Chính chỗ này là chỗ để cho mình luận nghĩa, luận nghĩa để thấy được tất cả các phương tiện mà Phật làm là cả một công trình dựng Phật đạo đã được chuẩn bị từ lúc còn chưa xuống trần, như vậy để biết rằng không phải chỉ có một mình Đức Phật sẽ làm tất cả. Đây chắc chắn là phương tiện của cả một Hội Thượng Phật Bồ tát, mà có thể Phật là một bậc chỉ đạo trong đó.
Nhưng cũng phải biết rằng: Tất cả những vị khi đắc được thánh đạo rồi thì cũng đều đồng trong một thể tánh thanh tịnh.
Rồi hỏi mình có phải đệ tử Phật không?
- Đệ tử Phật hả?
Ông là đệ tử Phật hay là đệ tử ma; đệ tử của Phật hay đệ tử của tham sân si mạn nghi.
- Tự hỏi lại lòng mình đi; ông là đệ tử của ai, ông con của ai, ông đọc kinh này để làm gì.
Ôi, ông biết gì mà nói: Lạy Phật một lạy phước sanh vô lượng, niệm Phật một niệm tội diệt hằng sa. Đó, cổ nhân đã nói rồi: đời tôi lạy biết bao nhiêu lạy, niệm Phật biết bao nhiêu niệm; tôi còn biết khuyên người phóng sanh ăn chay, hướng dẫn mọi người đọc kinh tụng chú biết bao nhiêu; đi đâu tôi cũng tán dương Phật, nói pháp Phật; Kinh Pháp Hoa này tôi cũng đọc nhiều rồi chứ ít đâu. Phước của tôi vô lượng, ông chê bai tôi là ông mang tội nặng lắm.
- Mình nói như vậy rồi trong khi đó mình sống công khai hoặc lén lút sống buông thả, phạm trai phá giới, không có giữ đúng thanh quy giới pháp, không có quy củ; mình thích làm gì thì làm có được không?
Có thật sự ông đã từng đảnh lễ Phật thật lòng bao giờ chưa, Phật có chịu chứng nhận cái lạy của ông chưa. Tâm ông chưa đạt, Phật chỉ ghi nhận thôi chứ chưa chứng nhận đâu; ông cũng chưa lạy một lạy nào ra hồn đâu, cũng chưa niệm Phật được một câu nào ra hồn đâu.
- Bởi vì sao?
Bởi vì sáu căn ông nhiễm ô, ba nghiệp ông không thanh tịnh; thì chính chỗ này ông chưa thấy được Phật thật sự đâu mà đòi lạy, phước báu vô lượng nào; tội diệt hằng sa ở đâu ra.
Nghe những điều này có thể rất đụng chạm; nhưng phải biết cái đụng chạm này là cái đụng chạm vào cái sự thật. Nếu không chạm vào được sự thật thì sẽ không bao giờ có chánh pháp cho mình tu; tất cả chỉ là sự giả dối lộng hành thì không phải là bậc tu hành thật sự.
Rồi giờ hỏi lại ông Phật ổng là gì?
Ông Phật ổng là cha lành chung bốn loài.
Thì ông có là con ma con quỷ, con trời con đất thần thánh gì đi nữa thì ông Phật ổng vẫn là cha lành của ông. Nhưng ông phải biết rằng cha của ông cũng không thể nào giải thoát dùm cho ông được; đó đã là quy luật của càn khôn rồi.
Cha lành của ông luôn luôn mở rộng cánh cửa, luôn luôn dõi theo, luôn luôn dùng nhiều hình thức để giúp ông thành tựu được nhân phẩm của những người tu đạo theo từng căn cơ chủng tánh để các ổng sẽ nhanh chóng về với ổng; mà giờ ông lại tu giả danh giả dối thì cái ông phải tự thọ nhận lấy cái nhân quả mà ông đã gieo trồng.
Thì đây, không phải nói ai cũng đội lốt tu hành; nhưng phải biết cái lốt phàm này không ít thì nhiều ai cũng có; mình tu là mình phải cởi nó ra từ từ, cởi nó ra rồi thì đừng có mặc lại, cởi hết lớp này rồi đến lớp khác thì đó mới gọi là tu. Tại gia cũng vậy, xuất gia cũng vậy; đều phải tìm ra cái vô minh này để cởi bỏ, cởi bỏ cái nguồn cội của mọi khổ đau bế tắc.
- Còn khổ đau không?
Sướng mà, có gì đâu mà khổ; ăn uống cũng sướng, chỗ ở cũng nguy nga, phương tiện vật chất đều đầy đủ đó là sướng hay khổ; không ai thấy nó khổ cả.
- Hôm qua có món nấm kho, canh chua thập cẩm; sao hôm nay chỉ toàn rau luộc với đậu hủ chiên, cơm canh đạm bạc không thôi vậy; như vầy sao tôi ăn nỗi trời, nuốt sao vô trời.
Vậy đã đủ khổ chưa, bế tắc chưa?
Chỉ có miếng ăn thôi là cũng đủ khổ rồi; người đời là vậy, chúng sanh là vậy. Còn người tu là phải từ bỏ cái sướng mà thấy nó là khổ để tìm tới cái ánh sáng của đạo. Nhưng:
- Rồi giờ ai cũng sài iphone 8, 8 plus hết; mà mình thì vẫn còn sài cái iphone 4, 5s; điện thoại cục gạch. Mỗi lần lôi cái điện thoại ra nhìn quê mùa quá, vì cái điện thoại của mình người ta coi thường cái bản mặt mình luôn, tuy người ta không nói nhưng người ta nhìn người ta ngông nghênh ra vẻ ta đây; giọng thì sang sảng. Thôi, giờ mình cũng muốn có một cái như vậy, thích quá mà chưa đủ tiền; phải ráng kiếm tiền, coi tín chủ nào đó có tiền tới nói pháp để họ phát tâm cúng dường mới được; như vậy nhìn nó mới có phước báu.
Như vậy rồi mình tu mình nghĩ. Ừ, tu thì tu cái gì cũng phải hơn người ta mới gọi là có phước. Tu mà cơm không đủ ăn áo không đủ mặc tức là kém phước rồi.
Ủa, ông nói vậy tức là tu là phải chạy theo danh lợi như vậy mới là có phước à.
- Ừ thì phước đó, ráng ăn cho hết vào; ăn xong rồi coi lại đời tu của mình tu nó đang sa đọa ở chỗ nào rồi.
Tại sao mình không nghĩ: Những người này họ đang bị vướng trong cái lưới trần, họ lấy nó làm công cụ để thể hiện cái tôi nhiễm đây. Mình là người tu thì mình phải thoát ra khỏi đó; bất quá mới sài, còn không có nữa thì càng tốt.
Mình có dùng điện thoại hay không không phải là xấu; nhưng mình phải biết mình tốn bao nhiêu tiền bạc thời gian cho nó, chạy theo mê đắm nó miết như vậy thì đường tu nó xa rời.
- Vì sao? Không ai rảnh để kiểm chứng cái việc mình dùng điện thoại này vào việc gì đâu, bao lâu cả; bùa mê thuốc lú nó đều nằm trong đó hết, thế giới ảo nó cũng nằm trong đó nó gồng đầu mình; cầm cái điện thoại này lên phải ý thức như con dao sắc bén nó đang kề trên cổ.
Mỗi tháng nạp mấy trăm ngàn tiền điện mình tán dóc, nhắn nhít; rảnh ra ôm nó không chịu buông.
Thì chính cái điện thoại nó trói mình, chính cái lòng tham cầu nó buộc mình, ảnh hưởng tâm lý vào việc thế tục mình quên đi kinh kệ; bây giờ không có cái điện thoại này vài ba ngày thôi là mình đứng ngồi không yên rồi, nhớ nhung da diết rồi tức là mình đã nhiễm nó sâu chặt rồi đó, quyến thuộc của nó rồi.
Ủa! Sao ông không lo tu đi, ông cũng sài điện thoại như ai sao ông còn nói ai.
- Ừ, thì đúng rồi. Tôi nói như vậy để tôi nhắc ông rằng: Ông đang ngồi đọc Kinh Pháp Hoa đây. Đọc tới tên của những vị như A Nhã Kiều Trần Như, Ma Ha Ca Diếp, Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp, Dà da Ca Diếp, Nan Đề Ca Diếp... này đây. Mà ông không biết những vị này là ai, thì ông hãy lôi cái điện thoại của ông ra, ông lên google ông thử đánh tên tìm coi những ông này là ai thôi. Ông nghiên cứu cho kỹ để ông biết tại sao những người này lại có tên trong kinh này thôi, tại sao mấy ổng là A La Hán thôi.
Thì nếu đúng là như vậy thì ông muốn cái điện thoại hiệu gì tôi phát tâm tôi mua cho ông liền mà không có hề do dự.
- Nhưng kinh điển đâu không thấy ông đọc, phật pháp đâu không thấy ông nghiên cứu, toàn thấy ông hết lướt sóng tin hot; rồi qua bản tình ca bất hủ con đường xưa em đi, chiều tím nhạt nhòa, đừng xa em đêm nay ... rồi ông coi phim ảnh thế tục ông nhiễm vào đó.
Rồi như ông đọc kinh ông không chú tâm mà cứ nhớ tới nó như vậy thì kinh điển nào vô đầu ông được, đâu còn chỗ nào đâu mà chứa; cho nên nếu ông không sớm nhận ra được điều gì trong đó thì tôi chắc chắn với ông rằng không sớm thì muộn ông cũng bỏ đạo theo tục trong một ngày không xa; còn ông có ở lại nương nơi cửa chùa, ông mượn tướng xuất gia khoác áo tu hành đi nữa ông cũng là hạng giả danh, Phật Bồ tát tới rồi cũng bị ông đuổi đi hết thôi chứ không trụ lại được đâu; rốt cuộc ông tu rồi cũng chẳng tới đâu.
Cho nên biết bây giờ tu muốn sáng đạo không còn là điều dễ dàng nữa đâu; muốn dễ dàng anh phải thấy ghi nhận được cái sai lầm của anh.
Lại có bậc hữu-học và vô-học hai ngàn người; tức khoảng mỗi bên một ngàn người.
Bậc hữu học và vô học kinh văn giải nghĩa là: Bậc còn học và bậc không cần phải học nữa. Học là người học còn hữu học, còn người đã học xong.
Bậc vô học cũng như đã được quả A La Hán; nhưng bây giờ mình ngồi mình luận. Hồi nãy kinh mới nói có đến một vạn hai ngàn A La hán câu hội; bây giờ tại sao không gom ông bậc vô học này vô luôn là khoảng mười ba ngàn ông luôn cho rồi. Mà bây giờ tự nhiên tách riêng ra làm chi cho mất công vậy; mâu thuẫn vậy, kinh điển sao giống hư cấu quá vậy.
Cho nên hai ngàn người này Phật ẩn nghĩa chỉ có hai hạng người thôi.
Thứ nhất bây giờ mình được sinh ra trong thời đại hòa bình, thời đại mà tất cả các kiến thức đều được đầy đủ. Mình được đến trường đến lớp, học đạo đức làm người, có bạn có bè, những ấn tượng kỷ niệm thời thơ ấu, rồi lớn lên được học nghề ra làm ăn; rồi cho đến khi mình tìm hiểu đến con đường tâm linh tu đạo. Thì đây mình cũng là người hữu học, cái học này là thế gian học thôi chứ chưa học được thánh hiền liền.
Tức là bây giờ tại gia hay xuất gia, người tục hay kẻ tu đều phải có kiến thức thế gian này trước; có để biết cái kiến thức thế gian này nó cũng liên quan đến con đường học đạo sau này.
Cho nên kinh mới nói rằng: Tất cả các pháp đều là Phật pháp.
Thì thế gian pháp này cũng là Phật pháp; tức là kiến thức thế gian không ít thì nhiều cũng phải biết đó để đủ sài.
Vậy bây giờ tôi hỏi:
- Lúc tôi chưa đi tu tôi có yêu một cô gái, cũng có giai đoạn dài tình yêu của chúng tôi cũng thắm thiết lắm. Nhưng sau này tôi thấy con người đầy tham lam nhỏ nhen nên tôi nghĩ rằng: thế gian này vô thường, sắc đẹp tiền tài hay lạc thú của thế gian đều là những thứ có thể trói buộc ta vào con đường đau khổ; tình yêu tham nhiễm của ta bây giờ chỉ là nhất thời mà làm ta quyến luyến và ích kỷ. Nay ta nên từ bỏ nó để tìm đến một con đường lớn vĩ đại hơn.
Thì chính chỗ này mình đang yêu ai đó, ghét thương ai mà mình nhận ra được một sự thật nào đó tức là mình đang học và nhận biết; thì chính chỗ này là đã tạm thời ngộ được lý thế gian.
Từ cái chỗ ngộ này nó lại ra cái chỗ ngộ kia; ngộ tức là sáng ra, bừng ra.
Thì giờ mình tự làm sáng bừng ra rồi thì tiếp tục mình phải trụ nơi cái bừng sáng đó nữa. Đừng để cho tâm mình nó thối chuyển, ma chướng nó có dịp nó xen vào; tà kiến nó có dịp phát sanh thì như thế cứ một bài học thôi mà đời này qua đời nọ mình học miết cũng không thuộc.
- Đây là chưa nói đến cái tình yêu ban đầu của mình nó trong sáng một chút; khi đã về với nhau được một thời gian rồi thì cái tình yêu này liệu rằng nó còn mãnh liệt được bao lâu; mới đầu mình chỉ nghĩ tưởng vậy thôi.
Rồi chắc chắn đến một ngày nào đó cái lòng tham nhiễm nó lại phát sanh lớn hơn thì người thứ hai thứ ba sẽ xuất hiện. Cái lửa lòng sanh tử này nó ghê gớm lắm, rồi nó đấu tranh tới đấu tranh lui trong luồng ngoài luồng. Đó, chỉ một khắc thôi là đã đến ngã ba cuộc đời; không thấy đường về. Kết cục của một đời người là như vậy đó; không biết bao nhiêu cho là đủ.
Thì bây giờ buộc phải có những bài học để dạy mình nhận ra được mọi thứ sự thật trên cuộc đời.
Nhận ra sớm thì phải nhanh sớm giải thoát nó đi. Mọi thứ qua rồi coi như cũng là cái kinh nghiệm của một hành trình chứ không có gì phải hổ thẹn xấu hổ cả; quan trọng là ngay trong giây phút hiện tại này đây đã thực sự lãnh ngộ được điều gì hay chưa, lãnh ngộ rồi thì tởn tới già chưa hay là vẫn tiếp tục đam mê.
Mà không phải dễ dàng gì lãnh ngộ được đâu, không dễ dàng gì từ bỏ được đâu. Nói nghe thì dễ lắm, rồi day dưa dằn lòng cũng dễ lắm, che dấu lấp liếm cũng nhanh lắm, rồi toan tính chối bỏ cũng hay lắm.
- Rồi bây giờ hỏi cái gì cần phải học, có cái gì không cần học không?
Cái gì chưa đạt thì phải học, học rồi thì phải nhận ra bài học đó có giá trị gì; pháp khổ pháp vui chìm đắm trong đó mà không ngộ lý được gì thì tức là chưa phải bậc hữu học.
Giờ tu hay đời gì cũng đều là hữu học; học ít học nhiều, vui nhiều khổ nhiều cũng đều là hữu học. Từ chỗ hữu học thế gian này mới tìm đến hữu học giải thoát thì đó chính là tu đạo; từ hữu học giải thoát cho đến vô học giải thoát đều là lộ trình mà bất cứ người tu nào cũng phải bước lên.
Bà Tỳ-kheo-ni Ma-ha Ba-Xà-Ba-Đề cùng với quyến thuộc sáu ngàn người câu-hội.
Bà Tỳ-kheo-ni Ma-ha Ba-Xà-Ba-Đề là ai.
Trong lịch sử thì bà tỳ kheo ni này là kế mẫu của Đức Phật Thích Ca sau này xuất gia theo Phật, bà là người nữ đầu tiên được Phật xuất gia rồi cho đến khi câu hội tham gia đạo tràng này cùng với sáu ngàn quyến thuộc.
Nhưng hiện nay trong thế giới hiện tại thì bà tỳ kheo ni này đâu có liên quan gì tới mình; bả câu hội thì kệ bả chứ có liên quan gì tới mình đâu mà cứ phải nhắc tên bả làm gì, rồi đào đâu ra sáu ngàn quyến thuộc nhiều dữ vậy, chỗ đâu mà chứa cho hết; bà là tỳ kheo ni xuất gia rồi giờ không lẽ dẫn theo kẻ hầu người hạ, lính lát cũng tính là quyến thuộc dẫn theo luôn; nhiều vậy. Kinh gì đâu mà kỳ lạ, Phật đâu chưa thấy lên tiếng nói pháp đại thừa không biết có ai hiểu không, mà toàn giới thiệu hoành tráng quá không vậy.
Ừ, đúng là giới thiệu, nhưng giới thiệu là có mục đích. Không có nhiều người đến câu hội bên ngoài đời thật vậy đâu, nhưng kinh nói đây sáu ngàn quyến thuộc tức là sáu căn của mình câu hội thôi. Cái ẩn ý này che dấu mấy ngàn năm rồi, không tinh ý sẽ không ai nhận ra.
Bây giờ nói tới bà tỳ kheo ni thời Đức Phật này tức là đang nhắc tới những bà tỳ kheo ni thời hiện tại, đó chính là quyến thuộc bà. Không có bà thì liệu có ni chúng như bây giờ không; cho nên bắt buộc phải nhắc tới bà.
Quyến thuộc của bà mấy ngàn năm nay cũng từ đó mà ra; giờ mình tu xuất gia làm ni rồi. Cũng ngồi đây thọ trì đọc tụng kinh pháp, cũng ngồi ngay tại thế gian đây câu hội nhưng mình không biết mình có thật sự câu hội hay không. Mình chỉ nghĩ rằng: Tôi ngồi đây tu vậy thôi, tôi không đủ phước sanh được vào thời Phật trụ thế nên giờ tôi mới phải sanh vào thời mạc pháp làm thân nữ khó tu này.
- Giờ tôi hỏi thiệt, lúc Phật còn tại thế thì có ni chúng; sau lúc Phật nhập diệt thì ni chúng ra sao?
Tại sao bên các nước như Tích lan, Miến điện, Thái lan, Lào, Cam-pu-chia không hề tồn tại ni chúng tỳ kheo. Rồi bên Tây Tạng chỉ cho nữ giới thọ sa di thôi chứ không có hàng tỳ kheo ni.
Đó, nhưng sau này đâu có ai kiểm chứng được ai đắc thánh quả A La hán đâu cho nên có lẽ vì thế mà bên các nước Nam truyền cũng mất luôn ni chúng.
Rồi nghe đâu, khi A Nan xin Phật cho nữ giới xuất gia đến ba lần, Phật bất quá cho phép rồi mới tuyên bố rằng: Nếu cho phép nữ giới xuất gia trong giáo pháp của ta thì tuổi thọ của chánh pháp sẽ giảm 500 năm, đặt ra các luật định nghiêm khắc. Rồi nói người chưa đắc thánh quả A La Hán không được thế phát cho nữ giới.
- Nghe vậy thì biết như vậy chớ làm sao, ổng nói ra điều gì chắc có nguyên do của ổng.
Không biết có phải vì phân biệt kỳ thị gì không nhưng vì nghe nói người nữ rất khó độ. Nhưng giờ muốn độ cho họ thì phải cho họ hiểu rõ về chính bản thân mình, phải cho họ thấy biết được cái nghiệp của người nữ này nó khó tu như thế nào.
- Bởi vì sao?
Bởi vì cái phiền não của người nữ nó nguy hiểm cho đạo. Làm người thế gian thì muốn làm gì thì làm, nhưng một khi đã xuất gia rồi thì phải nghiêm túc trong từng khắc; bởi vì chỉ cần nổi loạn một chút thôi là cũng đủ làm cho cửa đạo tan hoang rồi.
Sau khi Phật thế độ cho bà tỳ kheo ni này xuất gia, nhờ sự nỗ lực hết mình cũng chẳng bao lâu sau bà cũng đắc được thánh quả A La Hán.
- Họ cũng có thể đắc được thánh quả.
Bây giờ nhắc tới bà tỳ kheo ni Ma Ha Ba Xà Ba Đề là nhắc cho mình nhớ những gì Phật đã cảnh báo cho người nữ tu; phải nhớ tới mục đích và bổn phận của mình khi phát tâm tu đạo Phật đã từ bi chịu mở cửa đón mình vào cửa đạo, mở chốn ra cho mình tu hành thì giờ mình phải ý thức được những điều này để không có phụ tâm ý của Phật.
Bây giờ tu rồi thì dắt theo sáu căn là sáu quyến thuộc này cũng đi tìm đạo, cùng đi câu hội học hỏi các pháp để thanh lọc tâm ý cho thanh tịnh trang nghiêm; nghiên cứu kinh pháp cho kỹ lưỡng vào.
Mẹ của La-Hầu-La là bà Tỳ-kheo-ni Gia-Du-Đà-La cùng với quyến thuộc câu hội.
Mẹ của La Hầu La là bà Tỳ kheo ni Gia Du Đà La là ai?
Về nghĩa đen thì Tỳ kheo ni Gia Du Đà La trước lúc chưa xuất gia là công chúa Gia Du Đà La con của vua Thiện Giác, sau lấy thái tử Tất Đạt Đa là con vua Tịnh Phạn sau này rời bỏ cung vàng điện ngọc để đi tìm đạo rồi thành Phật.
Nói đến đây là nói đến công đức và hạnh nguyện của Gia Du Đà La trong trăm ngàn ức kiếp thì không ai có hiểu hết được cái mật nghĩa của Phật đạo; tất cả đều là sự thị hiện không thể nghĩ bàn. Chỗ này là từ Đại thừa đã đi vào Mật thừa mà giới hạn của chúng sanh thì không thể nào hiểu hết. Kinh giới thiệu ra ở đây để cho chúng ta biết rằng có nhiều lớp nghĩa Đại thừa ở trong cái tên này, có nhiều mật nghĩa của con đường Phật đạo ẩn chứa trong lời văn này.
Khi mình phát nguyện tu giải thoát rồi mình còn nhớ ai không?
Thì cũng có những người họ phát tâm đi tu, trước đó họ cũng có gia đình quyến thuộc của riêng họ, có thể họ cũng có vợ có con.
Thì chính cái chỗ này nó cũng nói lên rằng mình xuất gia tu đạo mình cũng sẽ rời bỏ tất cả các quyến thuộc thế gian của mình.
Mình rời bỏ nhưng họ có mất không?
Không mất. Thì giờ có tu rồi thì cũng không bao giờ bỏ rơi một ai cả, khi đã thành tựu được đạo nghiệp rồi thì cũng đều độ hóa cho họ đến cái con đường giải thoát hết.
Ví dụ như có một anh phật tử tại gia, anh tu rất là năng nổ, tuy anh là tại gia thôi nhưng anh cũng có cái chí nguyện tu đạo giải thoát, anh thực hành miên mật và cũng có chứng nghiệm được sự nhiệm mầu nào đó; anh rất chi là tôn sư trong đạo, tin tưởng và dám giao phó thân tâm mình nơi cửa đạo. Anh cũng có đi giảng nghe và hiểu được kinh pháp của Phật nói rất chi là vi diệu, có thể đem lại lợi lớn cho đời.
Thì bây giờ anh tu rồi, thì tu thì tu nhưng đâu phải tu riêng cho bản thân anh không đâu.
À, ở nhà vẫn có vợ con; vợ con của anh thì cũng giống như mẹ của La Hầu La là Gia Du Đà La vậy thôi.
- Em với con, cả gia đình mình bữa nay lên chỗ đạo sư câu hội cùng nghe giảng Kinh Diệu Pháp Liên Hoa cùng nhau.
Vợ con anh tất nhiên nó cũng rất chi là nể nang anh cùng nghe lời của anh, thì chính anh mới dẫn được vợ con anh đến tìm hiểu luôn cái con đường tu đạo này cùng tiến về Phật đạo thì đây cũng là một nghĩa giải thoát.
Thì giờ mình nghe giới thiệu tới đoạn kinh này thì phải biết cái dụng ý gì ở trong này đây, phương tiện nhắn nhủ cho mình cái gì đây.
Bậc đại Bồ-Tát tám muôn người đều không thối chuyển ở nơi đạo vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác.
Bậc đại Bồ tát tám muôn người, thì nói rằng Bồ tát này cũng là người chứ không phải là một chủng loại khác. Mà người thì chính là ngươi, khi ngươi tu được rồi không có còn bị thối rửa nữa, khi chắc trực rồi, chuyển ý phàm thành trí tuệ rồi chánh đẳng chánh giác thực hành được thì cũng tức là bậc đại từ bi, trí huệ lớn. Sẽ không có cái chuyện nghe ai xui khiến xúi bậy xúi bạ mà nghe theo người thế gian, phỉ báng chánh pháp; rồi chuyển tâm chuyển ý, lung la lung lay, không còn trụ vững nữa thì chưa gọi là bậc đại Bồ tát được.
Rồi chắc chắn một con số tám muôn Bồ tát câu hội nhiều như vậy không phải những vị bằng xương bằng thịt ở thế gian; mà nó ám chỉ cho một thứ lớp đẳng cấp tâm pháp một người tu hành Phật đạo.
Bây giờ muốn tu hiểu trụ được nơi đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác của Bồ tát thì cũng cần phải nương vào kinh này đây để nghe giới thiệu trước đã.
Chỗ này là chỗ của Bồ tát đạo, không phải một người tu đạo bình thường có thể hiểu được hết.
- Bởi vì sao?
Bởi vì mỗi món giải thoát của Bồ tát đều có trạng thái và cảnh giới tâm thức hoàn toàn khác biệt với chúng sanh; không giải thích được thì thấy nó khó hiểu; mà giải thích ra rồi, chú ý lăng nghe thực tế thấy nó cũng đơn giản lắm chứ không khó; nó khó ở cái chỗ là mình chưa trải nghiệm được nó. Thì phải tu được cái đại từ đại bi, đại trí đại dũng; mới thấy được cái chỗ dụng của bậc đại Bồ tát.
Như ví dụ một người bị mù, giờ muốn giải thích cho anh ta nghe những gì đã thấy, dù giải thích thế nào đi chăng nữa anh ta cũng sẽ không bao giờ có thể cảm nhận được hết những gì đã xảy ra thật sự.
Muốn hiểu được thì bây giờ phải mở mắt ra đi tìm hiểu tám món giải thoát, tức là phải tìm hiểu tám muôn người này là ai; thì chính chữ muôn này sẽ hoàn thành được tất cả mọi cái ý muốn của người tu đạo thì không bao giờ muộn; có tám món giải thoát này thì không thoái chuyển ở nơi đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Giờ muốn làm Bồ tát thì phải chuẩn bị tinh thần để đón nhận vượt qua tất cả các kiếp nạn của thế gian từ tám phía; để từ từ, từ cái địa vị quá phàm phu bước lần lên đỡ phàm phu; cho đến Thánh đạo rồi Phật đạo. Đó là một con đường lâu xa và bền bỉ được chuẩn bị và trang bị, trang bị là trang bị cái hành trang tất cả các món pháp phương tiện tùy theo căn cơ chủng tánh của các hàng tu.
Tám phía thì có muôn người, mà muôn người ở đây là ám chỉ tất cả mọi chúng sanh xung quanh chúng ta đây chớ ở đâu; thì đó là tám muôn người. Chữ muôn ở đây không nhất thiết cứ phải là mười ngàn người mới gọi là muôn đâu, thì chính bản thân chữ muôn này cái nghĩa của nó cũng rất rộng.
Thì bây giờ tám phía xung quanh mình, mình đi đâu cũng được cả. Bậc đại Bồ tát không sợ một phương hướng nào cả, tất cả đều tự tại; thấy gì nghe gì nói gì tất cả đều chánh đẳng chánh giác; mọi phương hướng đều rõ ràng rõ biết, mà nếu biết mà không rõ ràng thì cũng chưa phải là biết.
Tám món giải thoát bồ tát đạo:
Thứ nhất: Trong tâm khởi pháp, quán ngoài giải thoát nhiễm.
Thứ hai: Trong tâm không khởi, nhìn ngoài không khởi.
Thứ ba: Tịnh tâm sanh giải thoát, cảnh nhiễm tâm không nhiễm, trụ vào chỗ vô trụ.
Thứ tư: Thấu rõ bản chất tất cả các pháp, tâm ý trong sạch.
Thứ năm: Tạng thức loại bỏ tất cả các pháp nhiễm vi tế.
Thứ sáu: Không còn gì để nhiễm.
Thứ bảy: Thành tựu pháp thân giải thoát.
Thứ tám: Rốt ráo, không nhiễm nơi tất cả các pháp thành tựu.
Đây là tám món giải thoát của sáu căn từ lúc khởi pháp cho đến lúc được đầy đủ tất cả các món thành tựu. Chỗ này là tôi nói vọng cho quý vị dễ hiểu, mà khi hiểu thực sự được rồi thì không còn vọng nữa; nó ra một lớp nghĩa khác.
Đều chứng được pháp Đà-la-ni nhạo-thuyết biện tài chuyển nói pháp luân bất thối chuyển, từng cúng dường vô lượng trăm nghìn chư Phật, ở các nơi đức Phật trồng các cội công đức.
Đều chứng được, tại sao gọi là chứng?
Người ta nói rằng chứng có nghĩa là biết, biết có nghĩa là chứng; mà muốn chứng thì phải chưng bày nó ra, chưng bày nó ra thì phải canh chừng cái tâm của mình không có cho nó loạn động.
Mà có biết nó ở đâu chưa?
Ví dụ tôi tham mà tôi cất dấu che kín cái lòng tham này tôi không cho ai biết, tôi không chấp nhận người khác nhìn thấy cái tội lỗi của mình thì đó cũng lành canh chừng, cái chừng này tức là che dấu.
Thì bây giờ tu đạo rồi có dám chưng bày cái sự thật đó ra không, có tự thấy được lòng mình mà để phát nguyện với đời tôi quyết tâm từ bỏ cái lòng tham nhiễm này không?
Nếu mà không thì sao gọi là chứng, nói pháp ra là nói hai lời rồi. Thì chính chỗ mình chưa làm được mà mình đi nói trời nói đất thì có cái uy tín hay không?
Không.
Không thì làm sao mà có chuyện chứng được pháp đà la ni nhạo thuyết biện tài.
Thì không chưng bày được cái tâm pháp lành mạnh thực sự thì biện này là biện hộ, giảo biện chứ không thể nào là biện tài được; thì chính cái chữ tài này như ông Nguyễn Du nói là: chữ tài đi với chữ tai một vần.
Thì đây cái biện tài chỗ này chính là chuyển nói pháp luân bất thối chuyển chưa?
Rồi đây: chuyển nói pháp luân là nói cho ai?
Nói cho chúng sanh chứ nói cho ai, mấy ông Bồ tát mấy ổng biết rồi thì nói cho mấy ổng có ý nghĩa gì không; nói cho mấy ổng mấy ổng cũng đâu lấy gì làm ngạc nhiên.
Mà chúng sanh là ai?
Mà giờ đây mình nói cho bản thân mình nghe mà mình còn không chịu nghe chịu làm thì liệu đem cái lời của mình nói cho chúng sanh thì chúng sanh có nghe không?
Thì bản thân mình đây cũng là một chúng sanh rồi.
Thì phải nói làm sao cho cái bánh xe pháp luân này nó lăn bánh được, thì chính mình có pháp giải thoát thì xe nó mới lăn bánh được, nó lăn là nó lăn khắp nơi chứ nó đâu có dừng một chỗ nào.
Khi mà bánh xe pháp luân nó đã lăn được rồi thì tức là từng cúng dường vô lượng trăm nghìn chư Phật.
Cúng dường cái gì?
Cúng dường cái thân khẩu ý trang nghiêm, trang nghiêm pháp thân, hồi hướng Phật đạo.
Thì muốn thấy được chữ luân này mình phải luận ra được mình mới biết mình cúng dường cho trăm nghìn chư Phật là cúng cái gì.
Giờ không lẽ nói cúng dường là cúng hoa quả trái cây; không phải như vậy. Cái nghĩa cúng dường này đâu phải đơn giản như vậy.
Đây đã là nói tới cái nghĩa giải thoát rồi, không còn nói tới cái nghĩa phàm nữa.
Bồ tát nói với Bồ tát thì may ra hiểu chút phần, còn chúng sanh nghe được thì cũng tùy sức mà hiểu thôi chứ không thể hiểu biết một cách rốt ráo hết được.
Rồi tiếp tục: ở các nơi đức Phật trồng các cội công đức
Ở nơi các đức Phật trồng các cội công đức.
Bây giờ mình tu đạo rồi thì mình đang ở nơi đâu?
- Dạ, con đang ở trần gian.
Trần gian nào, lúc ông ngồi ông đọc kinh, ông nghe giảng giải kinh pháp ở đâu?
- Dạ ở đạo tràng.
Đạo tràng gì?
- Dạ, đạo tràng Pháp Hoa, có lúc thì đạo tràng Mật Tông, đạo tràng Tịnh độ Di Đà ạ?
Ông ngồi đó làm gì?
- Dạ, tu trì ạ.
Ừ, thì đó. Ông tu trì ông trồng các cội công đức ở đó, ông học hỏi ông tu luyện ở đó. Thì ông cũng đang trồng các cội công đức, mà công đức này mới là công đức trì kinh thôi; cái công đức thực hành nó mới lớn, tức là anh phải đi vào thực tế của các pháp.
Thì như vậy giờ mình mới phải hiểu cho được trồng: Ở trần gian này đây mới đích thực là cái nơi các bậc tu mới có thể trồng được các cội công đức.
Chứ đừng có ngồi mà vọng lên tới lên trên mây là nó xa vời lắm.
Phật nói kinh ở đây thì phải hiểu ở đây trước, hiểu được ở đây rồi thì từ từ sẽ cho mình thấy chứng biết hết các cảnh giới trang nghiêm của Bồ tát chứ không dấu diếm nữa.
Thường được các Phật ngợi khen, dùng đức từ để tu thân, khéo chứng trí tuệ của Phật thông đạt đại trí đến nơi bờ kia, danh đồn khắp vô lượng thế giới có thể độ vô số trăm ngàn chúng sanh.
Thường được các Phật ngợi khen là sao, mình ở đây mình có được Phật nào khen hay không?
Tôi biết mấy ông là các đại Bồ tát rồi, nhưng ở chỗ địa cầu chúng tôi đâu thấy được mấy ông nào từ bi xuống đây cứu độ đâu, cho nên là chưa rõ biết. Thì Phật khen những vị Bồ tát đó thì có ý nghĩa gì đâu.
Thì bây giờ mình phải hiểu, mình là mình đang sống cõi người này nè, đang sống ngay trên thế giới này đây, đất nước Việt Nam này đây, người Trung sống ở Trung Quốc, người Mỹ sống ở Mỹ.
Mình sống ở đây có Phật nào khen mình không?
Không có. Ở đây chỉ có chúng sanh thôi, chúng tôi tu nhưng chúng tôi chưa thấy Phật bao giờ sao biết ổng khen hay không.
Thì chúng sanh tức là Phật đó. Cho nên nè: Nam mô ba đời chư Phật quá khứ hiện tại vị lai kiếp tôn Phật; thì nếu ông chưa thấy Phật quá khứ hay hiện tại ngợi khen thì ít nhất ông đang ở đây thì chắc phải có được một số các Phật vị lai nào đó ngợi khen chớ.
Khen chưa?
Tu hành kiểu gì khen đâu không thấy; thấy người ta chửi thẳng vô mặt mình nổi sân nổi si vì cái sự tu không ra hồn thì chưa phải là được các Phật ngợi khen.
Khi chúng sanh cảm phục điều gì đó mà ngợi khen mình một câu thôi, thì tức phật tánh đã có rồi đó; chủng tử Phật đã xuất hiện, căn lành phải có thì mới đi đầu thai làm người được chớ; chẳng qua giờ nó bị che chướng không thấy được thôi.
Nghe một câu kinh nó đơn giản như vậy đó, nhưng mà nó thâm thúy lắm, đào sâu ra rồi thì thực sự thâm thúy vô cùng.
Thì bây giờ có khen hay chê gì đi nữa thì Bồ tát đạo phải dùng đức từ để tu thân; từ là cái nhân từ, từ bi, từ bỏ buông cái thế tục để tu cái thân này trở thành cái pháp thân trang nghiêm giải thoát thì đó gọi là dùng đức từ để tu thân.
Muốn tu thân thì phải có sức thần; sức thần là thần lực, thần lực của sáu căn phải khởi lên cùng sức tinh tấn.
Ví dụ sáng sớm thức dậy buồn ngủ quá?
Tu rồi thì phải thức khuya dậy sớm thọ trì tu tâm rèn luyện, đọc sách trì kinh luận giải các pháp; thì đây nếu cái thân này không có sức tinh tấn thì sao họ chịu đựng được; rồi chưa nói gì cái thân này tật bệnh già cả, nóng khổ than thở thì dễ gì họ chịu được.
Thôi, ở nhà chăn bò; thích ngủ bao nhiêu thì ngủ, thích chơi bao nhiêu thì chơi; đủ ăn đủ mặc không chết đói là được rồi. Chứ học hành là tôi học không nổi rồi; không có học hành gì hết, không có đại học bác sĩ, tiến sĩ gì hết, không có tu hành ăn chay niệm phật gì hết trơn á. Tui ở đây là không có biết cái gì là từ bi đạo đức hết, tôi làm người không có phạm pháp không ai bắt bớ tôi đi tù đi tội là được rồi.
Thì đây, có những người họ không biết đến cái khái niệm giải thoát là gì nữa thì họ lấy gì để hiểu.
Thì bây giờ muốn cho những người này cũng có thể khơi dậy một con đường để tu đạo, mà tu đạo thì không có phân biệt tại gia hay xuất gia, hiểu đạo hay chưa hiểu đạo thì bậc Bồ tát đều phải dùng cái đức từ đối đãi hết thì đây mới gọi là dùng đức từ để tu thân.
khéo chứng trí tuệ của Phật thông đạt đại trí đến nơi bờ kia.
Khéo chứng trí tuệ là gì?
Chữ khéo này nghe thì nghe vậy thôi chứ học cả đời cũng học không hết.
Ví dụ: có một người họ tới họ gây khó dễ cho mình, mà mình không đủ trí tuệ để giải đáp những thắc mắc của họ thì họ coi mình ra cái chi.
Cho nên bây giờ mình phải thông đạt đại trí đến nơi bờ kia.
Bờ kia là gì?
Ô, đừng có nghĩ bờ kia là đi đến một cái cõi nào hết.
Mình một cõi, họ cũng một cõi; họ đến với mình bằng một cái cõi lòng nào đó mà mình không biết không suy được trong cái cõi lòng này nó đang tính toán mưu toan cái điều gì, đang nghĩ ngợi suy tư cái điều gì thì làm sao biết đến được cái bờ của họ là bờ gì.
À, họ đang ở bờ đau đớn vì đứa con mới mất, họ đau đớn vì bị hận thù ghen ghét.
Thì khi mình thông đạt phải thật sự là đại trí đại lực rồi thì mình mới đến bên cái bờ kia của họ, mình mới gọi là khéo chứng biết được cái phương tiện của Phật rồi nương nơi đó để dẫn họ đi ra khỏi cái bờ đó.
Nghe đến bên bờ kia là thấy thích lắm; nhưng để đến bên được bờ kia là không phải dễ đâu.
Nghe đâu trí huệ của Phật tưởng là chắc biết hóa phép hoặc xây dựng được những cảnh tươi đẹp nào đó. Nhưng không phải đâu, trí huệ của Phật thật sự phải nằm ở cái bờ này nè; cái bờ đau khổ của mọi chúng sanh.
Thì từ cái bờ này độ ra thì danh nó mới đồn khắp vô lượng thế giới, độ được vô số trăm ngàn chúng sanh.
Trí lớn khắp tam thiên
Thánh đạo về một nhà
Hoa ưu đàm la bát
Thơm ngát khắp trần gian.
Tôi nghe như thế này: Một thuở nọ đức Phật ở trong núi Kỳ-Xà-Quật, nơi thành Vương-Xá cùng chúng đại Tỳ-kheo một vạn hai ngàn người câu hội.
Bây giờ nói đến tôi nghe; thì tôi nghe là nghe bằng cái gì. Dùng tai để nghe thì có nghe thấy được cái thật tướng của tôi nghe này không?
Thì bây giờ phải đi tìm cái nghĩa thật của tôi nghe này có cái đạo vô thượng trong đó; chỉ cần tìm ra nó thôi là cũng đủ đắc đạo rồi.
Bây giờ mình ngồi đây mình nghe cái kinh này là nghe bằng cái gì?
- Đâu có nghe được đâu.
Phải nhìn cái mặt chữ của ngôn ngữ này trước rồi mới bắt đầu thắc mắc; kinh này ở đâu ra có cho mình đọc vậy?
Từ đó mới thu nhiếp vô cái ý căn, cái ý căn phân biệt phán đoán thì từ cái ý căn này nó mới phát ra ngoài miệng bằng âm thanh của thế gian.
Nhưng âm thanh của thế gian có hay mấy đi nữa nó cũng không thể nào diễn đạt tất cả mọi cái ý tưởng tâm pháp một cách chính xác nhất.
Ví dụ hôm qua mình nghe thấy có người đứng trước mặt chê bai nói xấu mình rồi họ có cái ý tốt hoặc xấu trong đó mà mình không cảm nhận được; không thấy được cái ý sâu thẩm bên trong họ thì chưa gọi là tôi nghe; không có cái trí giải thoát thì không thể diễn đạt được cái lời chê bai này là tốt hay xấu.
Cũng như vậy, bây giờ mình ngồi mình đọc kinh đây nhưng mình không thấy được cái ý nghĩa giải thoát mà chư Phật muốn nhắn nhủ trong cái từ tôi nghe này thì thật ra mình chưa đọc được chơn nghĩa của kinh Diệu Pháp Liên Hoa này; chưa đọc được thì chưa nghe được.
Một từ nghe thôi là chứa đựng tất cả các pháp thế gian cho đến giải thoát đều ẩn chứa ở trong đó; đọc kinh mà không biết lắng nghe cái âm thanh của thật tướng đó thì có nghĩa là chưa thấy được pháp thật. Chưa thấy được nghĩa giải thoát của kinh mà đi khen kinh này hay lắm thì chưa đúng pháp, chưa phải hay, chưa phải rốt ráo; nói hơi quá là mình cũng a dua theo được một thời gian rồi cũng bị loại từ vòng gởi xe chứ không đi sâu vào được pháp thật. Rồi cũng chạy theo pháp này pháp kia, vị này vị kia, mật này mật kia chứ chưa tự trụ được Đại thừa.
Thì phải biết tất cả các pháp muốn được rốt ráo đều phải nương nơi kinh này; pháp này chỉ có một dòng truyền, không hai cũng không ba, không nhánh cũng không nhành. Từ Bồ Đề đưa xuống thì không có phân biệt là pháp này là pháp của ai nói. Bởi vì sao?
Bởi vì nó là tạng thân của hư không. Mười phương pháp giới đồng trụ trong pháp này; mà trụ trong pháp này mà không thấy không hiểu thì có trụ cũng như không. Cho nên trụ đây là trụ trong cái ngôn ngữ giải thoát, rồi mới đến cảnh giới giải thoát, pháp thân giải thoát.
Thì kinh pháp ở đây là phải đi tìm cái rốt ráo mới gọi là cao siêu; chưa hiểu rốt ráo được cái nghe này thì ức kiếp tu cũng không đến nơi đến chốn; rồi có đi học pháp nào đi nữa, cao siêu tới đâu nhưng không có được cái nền tảng để thâm nhập vào cái chữ nghe một cách Chánh đẳng Chánh giác thì chỉ là đang đi ngoài rìa thôi chứ chưa vô được bên trong pháp thật; chỉ tu pháp giả chứ chưa tu được pháp thật.
Thì tôi nói như vậy để biết đường mà xác định được rằng: Tu vô pháp này là phải cầu cho được cái pháp
Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Nếu ai tu mà không cầu pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác này mà chỉ cầu danh lợi nhưỡng của thế gian thì đường tu đã nhầm to rồi.
Có tu rồi mà không ngộ ra được cái chữ tu đó thì cái ý nghĩa của tu không đi về đâu; không có cái ý nghĩa giải thoát thì tu này là tu tù, tu mù. Tức là vẫn phải phiền não, vẫn bị lòng phàm nó giam, vẫn bị đau khổ rồi rên la sợ hãi thì đây đâu phải gọi là cái khí chất của sự tu.
Tu mà không có khí chất giải thoát thì đáng bị xem thường, đáng bị chê bai không.
- Mà chê bai đó đó, đang chê bai đây có chịu lắng nghe không?
Thì bây giờ phải nghe được cái tâm phàm của mình. Chê mình là để mình ngộ nhận ra được cái điểm yếu của mình để biết đường mà trau dồi tâm pháp cho bền vững thì đó cũng gọi là quán nội tâm tức cũng gọi là nghe.
Mình phải biết tại sao người ta chê bai hoặc mắng rủa mình.
Nhưng cũng phải biết cũng chẳng có ai rảnh mà chê miết đâu, đó chỉ là tự chuốc khổ vào mình; thì để mà tìm được một bậc chê bai xuất chúng đó là một điều khó cầu?
Cho nên tu là cầu chê trước khi cầu khen. Nghe khen thì sướng rồi, nghe chê rồi cũng phải ngẫm lại rồi càng phải sướng hơn thì đó chính là cái nghe của trí giải thoát.
Nhưng bây giờ nhiều khi có những lúc mình sống không ra gì người ta đánh trúng tim đen là thường xuyên; rồi tự ái nỗi lên, bực tức nổi lên, phiền não lòi ra. Rồi nghĩ mình có lòng tự trọng, quê quá bắt đầu cáu kỉnh kình cự rồi cố gắng che đậy không giám minh bạch đối diện với cái bộ mặt thật của chính mình thì không thể cầu được cái pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác này.
Thì bây giờ tu rồi thì cũng đơn giản thôi.
- Nghe.
Quá đơn giản. Nghe để phân biệt rồi hiểu cho đúng mà theo đó bình tĩnh đối đáp nghĩa của pháp thì không uổng công đọc tụng thọ trì diễn giải chơn nghĩa của kinh này.
Mọi người xung quanh họ tự biết đánh giá cái khen cái chê của mỗi người; người thế gian cho đến người tu tu đạo ai cũng có cái trí căn bản để nhận thức thì phải nương vào đó cũng là kiểm chứng tâm pháp một cách lành mạnh, kiểm chứng bằng tâm linh.
Giờ nói nghe thì nghe đơn giản lắm; nhưng không dễ. Từ cái nghe nội tâm cho đến nghe được cái cảnh giới tâm linh diệu pháp đều phải trải qua những giai đoạn tu luyện lâu xa bền vững; mà đã vững được rồi thì không còn gọi là lâu xa.
- Bởi vì sao?
Trước mắt đó mà không thấy, bên tai đó mà không nghe. Chỉ cần chịu nghe và nghe được thôi thì trong khoảng sát na, trong tích tắc là con đường sáng đã mở ra rồi.
- Bây giờ nghe cái gì?
Nghe cái tôi cho nên gọi là tôi nghe; từ cái tôi nghe này sẽ nghe được cùng khắp.
Mà cái tôi là gì?
Là cái cõi lòng, cái cõi lòng này nó có vô số cái tâm ý từ chánh đến tà đều có đủ, cũng từ chữ tôi này mà ra; từ chưa khởi cho đến khởi, từ chưa phát sanh cho đến đã phát sanh, từ chưa biết cho đến đã biết; tất cả đều nằm trong phạm vi của chữ tôi này.
Thì cái chữ tôi này phải đi tìm đạo. Thì tìm ở chỗ tôi nghe như thế này.
Nghe cái chữ như, chữ thế, chữ này.
- Như là gì?
Cuộc sống như vậy, tôi đang như vậy, anh đang như vầy.
Anh có nghe thấy cuộc sống đang nói gì không?
Cuộc sống nhiều khi chán nản quá, vô vị quá, nhiều khổ não quá; vui đó, buồn đó; rồi nào bệnh tật đổ ra đó, già khổ tới nơi rồi, chết chóc triền miên không biết đường nào mà lần.
Thì ở đây chưa nghe được như thị rồi Như Lai thì phải nghe được như vậy trước.
Từ cái chữ như này mới tiến thêm một bước nữa đó là dường như; dường như có một con đường, dường như có những thế giới. Thì bây giờ phải nghe được chữ thế.
Đó, cả đời mình có bao giờ nghe kể về một cái cõi giới nào chưa; người ta đi tu để làm gì, tại sao chết rồi lại phải thắp hương, rồi vái rồi lạy chấp tay thành khẩn, rồi cúng rồi kiến đám giỗ đám ma; mà nói tu thì không chịu tu, tại sao lại như thế.
Ở đây chưa phải là gì cao siêu cả, những cái không cao siêu này là cái sự thật tưởng chừng như ai cũng hiểu nhưng bản chất thì không hiểu hết cho tường tận. Cái sự thật của cuộc đời là mỗi ngày có nhiều người chết đi, tai nạn giao thông; ung thư gan phổi, bệnh dịch truyền nhiễm thập tử nhất sanh; rồi cũng biết đâu ai biết được khi nào sẽ tới lượt mình; rồi lại nhiều người sinh ra lớn lên tiếp theo một chu kỳ như vậy nữa.
Rồi tiếp tục là chữ này.
Chữ này là một tiếng gọi, một tiếng gọi từ tâm linh, một cảnh giới, và chính ngay thế giới này; một tiếng gọi này đã luôn luôn có mặt tồn tại trong mọi không gian rộng lớn này.
- Đã nghe được như thế này chưa?
Trước mắt nghe ít nghe nhiều gì thì cũng là nghe, cái nghe này với người đời là cái nghe hời hợt; sự thật đang bày ra ra trước mắt mà cũng như câm như điếc như mù. Mù ở cái chỗ không nhận biết được cái giá trị của một kiếp sống, điếc ở chỗ không thấy nghe được cái cốt lõi của những vấn đề cần phải phơi bày ra một con đường giải thoát tâm linh, rồi phiền não của một kiếp người. Thì ngay đây cái lời nói đều không trụ vào tướng chơn chánh thì có nói nhiều nói ít cũng chỉ đem lại khổ đau mà thôi. Cái sự nghe mà trụ vào tham nhiễm tham chấp, không sáng suốt, kiêu căng ngạo mạn thì có ngày không vỡ mồm cũng vỡ mặt là một điều dường như chắc chắn.
Đó, quán chiếu cho kỹ vô. Quán chiếu để tìm ra cho được cái lời này là thật hay giả; là chơn hay ngụy thì cũng đều có cái sự nghe trong này.
Thì phải biết cái mục đích của việc nghe này không ngoài cái mục đích làm cho thân tâm mỗi người được tiến lên cái chỗ an lành tươi mát nhẹ nhàng thì chỗ này mới gọi là tôi nghe như thế này.
Rồi một thuở nọ.
Tại sao gọi là một, tại sao gọi là thuở, rồi nọ.
Một tức là mình đến đây nghe được pháp rồi đó, thấy được chữ một rồi đó nhưng có thực sự là một lòng chưa hay là vẫn hai lòng, nếu mà hai lòng thì thì cũng thương tình cho mình tu hết; nhưng cái tu này không phải là một; không thể thấy được cái thuở đó là có thật hay không?
Nghe chỉ biết nghe, đọc chỉ biết đọc, rồi tin vẫn biết tin nhưng không có đủ cái thần lực phương tiện để kiểm chứng cái một thuở này thì đạo chưa thấy lấy gì mà có xa với gần.
Cho nên phải làm sao đó để kiểm chứng được, kiểm chứng được rồi thì không còn gọi là một thuở đó nữa; mà thuở đó chính là bây giờ cũng là một cái thuở, một thời.
Mà cái thời theo cách hiểu thông thường là hơn hai ngàn năm trước, thì đó chỉ là một nghĩa; gọi là nghĩa đen.
Cho nên phải biết một ngày chia ra làm hai mươi bốn giờ, thì mỗi giờ mỗi phút mỗi giây đã là một thời trôi qua rồi. Trong tích tắc thở vô mà không ra là từ đời này đã bước qua đời khác rồi.
Thì từ ngày đức Phật Thích Ca thị hiện trên cõi đời này nói trên một phương diện nào thì đã trải qua lượng vô số thời rồi. Nhưng ở đây nói chỉ có một thuở một thời nào đó chứ không nói thời gian nào cụ thể nào cả.
Thì cái tâm mình cũng vậy, có những lúc mình hướng về đức Phật, hướng về đạo giải thoát thì mình mới thấy được đức Phật đó là có thật hay không, kinh này có thật là kinh của Phật hay không; thuở đó có thật hay không.
Thì đây là cả một vấn đề lớn mà các hàng tu luôn luôn tranh cải từ mấy ngàn năm nay rồi.
Vô số chúng sanh, rồi cũng có vô số người tu họ không thể tin hiểu nổi kinh này.
- Bởi vì sao?
Bởi vì kinh này nó nói trên trời dưới biển; thì muốn biết kinh nói trên trời dưới biển hay không thì đọc tu vô đi rồi ngẫm coi nó có trên trời dưới biển hay không thì ở đây rất khó thấy biết. Nếu không có giảng nói được cái thiên cơ ngay trong cái đời đại thế mạt kiếp trong kinh này; mà chỉ giảng nói theo văn tự suông một cách mông lung thì đó chỉ là pháp vọng.
Thì ở đây phải coi cho kỹ vô; coi có ai quăng lựu đạn trong kinh này hay không. Thì chỗ này rất thâm sâu, thâm sâu ở cái chỗ con người không thể hiểu nổi; bởi vì chưa hiểu được sự hộ niệm tâm linh của pháp này thì không đời nào hiểu nổi, mà không hiểu nổi thì biết đường đâu mà tu; mà không tu hiểu thì tin để làm gì. Thì như vậy không tu không chứng biết, có tu có chứng biết mới có đạo.
Thấy có đạo rồi mới thấy có đức Phật trong kinh này; cho nên mới gọi là một thuở nọ Đức Phật ở trong núi Kỳ-Xà-Quật.
Thấy Đức Phật trong kinh này chưa, rồi tu kinh này thấy Đức Phật chưa; rồi Đức Phật ở đâu mà thấy?
Thì trong kinh này miêu tả Đức Phật ở trong núi.
Tại sao không gọi là ở ngoài núi, hoặc trên núi mà phải gọi là ở trong núi. Ở trong núi đúng nghĩa là mình phải nghĩ tới cái hang; mà ở bên Ấn Độ Phật nói pháp này ở trên núi chứ đâu phải trong núi đâu.
- Núi này là gì?
Thì phải hiểu núi này ám chỉ có nhiều cái nghĩa Đại thừa ẩn chứa trong đó.
Cái tâm của chúng sanh cũng là một cái núi, cái núi này nó chất chứa đầy dãy những tham sân si; cái núi nghiệp nó chất chồng. Thì Phật cũng đều thấy biết được cái núi này của tất cả các hàng tu rồi vô số chúng sanh nó như thế nào.
Thì Phật cũng ở sát một bên, ở ngay trong đó thấy biết đúng như thật chứ không ở xa, tâm trí mình ở đâu cũng đều thấy biết không có sai sót. Chúng sanh ở đâu, Phật ở đó; ở đâu có chúng sanh rồi có tu nữa là ở đó có Phật thị hiện, có dưới nhiều hình thức để quản lý giáo hóa tùy theo căn tánh.
Cho nên như vậy người ta mới niệm Phật tụng kinh, rồi cầu nguyện; cầu nguyện ngay trong cái núi này.
Cầu nguyện để làm gì?
Để thấy được cái núi nghiệp này, cái nghiệp của thân khẩu ý này nó dẫn mình đi đọa lạc đau khổ.
Thì ngay chỗ đau khổ này giờ mình đã thấy được kinh văn lời lẽ giải thoát này rồi thì phải đào sâu vào đó để mà hiểu đạo thì kinh pháp mới có giá trị.
Còn đọc mà như đọc vẹt, đọc như cái máy mà không tìm hiểu đào sâu vào nghĩa giải thoát để mà chuyển hóa cái tâm này làm cho nó linh ứng; thì có tin có tu cũng không thấy có lợi ích nào thì chưa phải là thấy được Đức Phật ở trong núi Kỳ-Xà-Quật, rồi cũng không đi tới đâu; trụ pháp cũng không nổi.
Giờ muốn thấy được Đức Phật thì trước hết phải thấy được cái núi vô minh phiền não của mình trước. Cho nên phải biết Phật ở đây không phải là một hình tướng cụ thể nào hết. Nếu ai đó mà nói mình đã thấy được phật qua hình tướng thì chưa chắc thiệt, thì đó chỉ là tướng phật chứ không phải là phật tướng.
Bởi vì phật tướng là cái tướng giải thoát của pháp giới tánh; nếu còn chấp vào tướng phật bằng một hình ảnh nào đó thì đấy chỉ là ảo ảnh; không phải thật tướng của phật, không phải y chánh báo trang nghiêm.
- Thật tướng của phật là gì?
Tận cùng của chúng sanh tức là phật tướng.
Mà bây giờ hỏi để thấy được cái phật tướng này thì tôi không còn là phật nữa.
Thì cái phật tướng là cái rốt ráo chơn chánh. Rồi tôi nói vậy chắc chi tôi chơn chánh được bao nhiêu, thần lực một mảy may cũng không có lấy gì minh chứng đâu là phật. Thì đây mỗi người tu để thấy được cái phật tướng thì tam tạng kinh điển không sót một câu.
Nhưng tam tạng kinh điển thì nhiều quá; đọc có một quyển kinh nhỏ xíu này thôi mà một câu cũng không hiểu thì tam tạng kinh điển đó lấy gì để hiểu.
Cho nên chỉ cần hiểu một câu thôi mà hiểu cho tận cùng rốt ráo thì tam tạng kinh điển tự nhiên nó cũng theo đó mà lòi ra.
Nội riêng hai cái từ đức Phật này thôi là đã hiểu không nổi rồi. Nếu hiểu được thì cũng gọi là Phật rồi; ai nói mình hiểu được chữ Phật này rồi thì người đó chắc chắn là phật rồi.
Mà giờ tới hỏi Phật là gì thì đâu có phải dùng miệng mà trả lời cho hết được.
Giờ tôi hỏi Phật là gì?
- Ừ, Phật là ông đó.
Vậy ông là ai?
- Tôi là chúng sanh, chúng sanh cho nên mới thấy ông là Phật; tôn trọng tất cả chúng sanh tức là tôn trọng tất cả Phật cái nghĩa này không khác.
Không tôn trọng được chúng sanh mà nói tôi tôn trọng Phật, rồi tôi là Phật thì cái nghĩa này nó xa vời lắm.
Cho nên kinh nói: Tất cả người nam từng là cha ta, tất cả người nữ từng là mẹ ta. Nếu ông không tôn trọng chúng sanh thì ông không còn ai để tôn trọng.
Giờ hỏi cha mẹ ông là ai, là chúng sanh hay là Phật?
- Thì cha mẹ hiện tiền như Phật tại thế.
Nhưng ở đây rõ ràng cha mẹ ông cũng là chúng sanh bình thường sao nói như Phật tại thế. Thì ông là con, cái đạo hiếu là cái đạo đầu tiên mà bất cứ con người ai ở trên đời này cũng phải tu; người cha người mẹ đó lo cho ông từ lúc ông lọt lòng, không có cha mẹ thì không có ông; cho nên nghĩa của cha mẹ này nó cũng đồng nghĩa với phật; phật chúng sanh, hay còn gọi là phật chưa giải thoát.
Thì bản chất của Phật cũng vậy; cũng như một người cha người mẹ thôi chứ không khác, nhưng cha mẹ này là một bậc giải thoát.
Thì Phật hay bồ tát muốn sanh trước hết là phải nương vào chúng sanh, mà nương vào chúng sanh đi đầu thai là phải chọn một gia đình nào đó, nhơn duyên nào đó; một nữ một nam họ làm cha mẹ của mình.
Thì từ chỗ này đây tất cả hàng tu, các hàng chúng sanh đều sẽ sanh vào trong cái thành Vương xá này cho nên gọi là nơi thành Vương Xá.
Thì kinh điển này chúng ta đang đọc đây cũng là nơi thành Vương Xá.
- Vương Xá là gì?
Sanh vào một đất nước, đất nước đó đã có sẳn vô số chúng sanh cảnh đời ở đó rồi. Các pháp, rồi cha mẹ anh em, bà con, bạn bè; rồi trường lớp trường nghề, kẻ đi làm người lo học, kẻ đi qua người đi lại cười nói trao đổi bằng tất các âm thanh giọng tiếng hiện tiền nơi đó, bao nhiêu con đường phố xá như vậy đều ở khắp mọi nơi. Thì đây cũng chính là nơi thành Vương Xá.
Rồi thì nơi thành Vương Xá cùng với chúng đại tỳ kheo một vạn hai ngàn người câu hội.
Tại sao gọi là tỳ kheo, ai sáng tác ra cái từ tỳ kheo này. Thì tỳ kheo ám chỉ cho là chúng sanh đi tu học.
Thì phải hiểu tỳ kheo này là cái người ngộ ra được cái cảnh khổ thế tục của người thế gian, cái địa ngục của người trần gian; cái địa ngục của cảnh giới A-Tỳ trong tâm linh.
Thì tu sao không biết nhưng phải thấy được cái địa ngục bể khổ này chúng sanh đang đi vào đó, sống trong đó. Thì cái chữ tỳ này là nó nhắc nhở cho mình biết mình cũng đang trụ nơi đó; cho nên sự tu lúc nào cũng phải cân nhắc.
Không phải nghe ta là tỳ kheo mà hớn hở ngạo mạn, rồi nhận của cúng dường cho đã rồi không chịu tu thì chữ tỳ này không còn đưa đến cái nghĩa giải thoát nữa mà nó đưa xuống thẳng âm giới.
Thì chữ kheo này tức là theo nghiệp mà đi, theo duyên mà đến, theo pháp mà trụ, theo tâm mà hiện, theo cảnh mà vào. Thì đây là cái chỗ nhắc nhở cho tất cả các hàng tỳ kheo đang sống ngay trong cái thời đại này, thời đại công nghệ số; thời đại mà chúng sanh nhiều sa đọa thì người tu phải ý thức tinh thần thép để mà không chìm đắm vào đó thì đến cái gọi là Đại Tỳ Kheo.
Đại Tỳ kheo có nghĩa là phải hơn cái người mà chỉ gọi là tỳ kheo không thôi; tỳ kheo thôi tức là chưa tu được giải thoát, còn đại tỳ kheo là phải ngộ biết được cái pháp lớn giải thoát hơn chúng sanh.
Giờ muốn làm tỳ kheo dễ mà. Vào chùa ở mấy năm, tu hành sao không biết; tùy theo mỗi chùa mỗi cảnh, cũng không phải là chùa nào cũng chân tu; thầy nào cũng chân chánh đâu. Gặp được thầy chân chánh thì coi như phước lớn mạng lớn; gặp thầy không chơn chánh mà không biết thoát ra khỏi đó là lơ tơ mơ cũng chết như con vắt, khô như con mực cũng là thực tế của sự thật hơi phủ phàng; rồi đây cũng chưa nhắc đến bạn xấu tà kiến, rồi cũng chưa nhắc đến cái tâm lực bộ mặt thật đen tối của mỗi người tu.
Thì bây giờ không nói đến ai tu chưa được ai tu được nữa; ai đã có cái ý tu giải thoát thì cứ gọi là tỳ kheo hết cũng được.
Thì bây giờ muốn làm một bậc đại tỳ kheo là phải thông suốt được mười hai nhơn duyên tức là một vạn hai ngàn người câu hội.
Một vạn hai ngàn người câu hội này cũng đều nằm trong mười hai con giáp; tức là anh tu anh phải thoát ra khỏi mười hai con giáp này, rồi đưa những con này đến bến bờ giải thoát.
Chứ bây giờ mình là bậc đại tỳ kheo rồi mà mình còn nói người đó nó khắc tui, nó không hợp mạng với tôi, nó khắc khẩu tôi. Thì đó mình chỉ là tỳ kheo thì tương đồng với chúng sanh thôi chứ chưa phải là bậc đại tỳ kheo; bậc đại tỳ kheo là phải thoát ra được mọi sự ngăn cách giữa những cái khắc và hợp của thế gian. Thì đây mới gọi là: khắc gặp khắc mà không khắc gọi là đạo.
Thì mười hai con giáp này đều câu hội xung quanh mình; xung quanh một người tu đạo có vô số chúng sanh cũng đều câu hội.
Thì bậc đại tỳ kheo phải dùng trí lực lòng nhân từ, rồi tâm pháp lành mạnh mà đến với chúng sanh thì mới gọi là câu hội; còn không nữa gọi đó là câu cá kiếm cơm chứ không gọi là câu hội.
Mà muốn những người này câu hội thì phải tu cho được mười hai nhơn duyên một cách chơn chánh mới đủ sức mà câu hội được; còn không có câu hội thì cái hội của mình cũng không đi đến đâu. Được một thời gian mình không có tự phá nát rồi cũng có người xuất hiện họ phá cho nát bét.
Bởi vì mười hai nhơn duyên rất là rộng. Thì thứ nhất mình chưa thấy mười hai nhơn giải thoát, thì phải thấy mười hai nhơn duyên của chúng sanh.
Tức là:
Vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên lão tử ưu bi khổ não.
Thì bây giờ tôi lấy ví dụ của một cái vô minh:
Thì vô minh trong một nghĩa đơn giản nó có nghĩa là cái ý tham và ngu; từ cái chỗ ngu mới khôn ra, mà khôn ra không được thì ngu miết.
Ví dụ cá độ bóng đá, rồi bài bạc, nghiện. Biết chơi bời sa vào những thứ đó thì chỉ có tàn mạc thôi nhưng vẫn cứ tham mà lao đầu vô chơi, mà chơi thì phải hành ở trong đó; rồi cũng sa đọa nhiều thứ khác ở trong đó, ai khuyên cũng để ngoài tai.
- Bởi vì sao sa đọa?
Bởi vì danh và sắc; từ cái hành nó không thanh tịnh, hoặc làm nghề bất chánh; rồi dối bày lừa lọc mưu toan này để có cái danh lợi; rồi cái danh lợi này nó dính vào cái sắc. Sắc tức là sắc tướng, sắc thể; gọi là sắc đẹp cũng được.
Danh là phải danh lợi, có danh lợi thì mới đi tìm sắc để sa đọa vào đó; thì chữ sắc trong nghĩa này nó cũng có nghĩa sắc trai sắc gái.
Mà đã dính vô rồi thì danh sắc duyên lục nhập.
Tức là sáu căn mắt tai mũi lưỡi thân ý nó bị tham đắm, chìm đắm. Mắt thì thích ngắm sắc trai sắc gái, tai thì thích nghe âm thanh bất tịnh, mũi thích ngửi mùi bất tịnh; mũi lưỡi thân ý cũng lại như thế.
Tức là lục nhập này là sáu căn nó tiếp xúc với sáu trần, nó nhập với sáu trần. Sáu trần tức là sắc thanh hương vị xúc pháp.
Sắc là sắc đẹp, thanh là âm thanh, hương là mùi hương, vị là mùi vị trên đầu lưỡi, xúc là tiếp xúc trên thân, pháp tức là ý thức.
Thì từ cái chỗ con người tiếp xúc với nhau là có cảm xúc, từ cảm xúc nó ra cảm thọ. Cảm thọ cái pháp nhiễm.
Từ cái nhiễm này mới sanh ra ái; ái tức là mến yêu. Rồi từ cái này nó mới sanh ra thêm cái duyên thủ. Thủ tức là chấp thủ.
Ví dụ:
- Đây là bồ tao, đây là nhà cửa tiền bạc của ta, xe của ta v.v... đứa nào đụng vô chết với tao. Như vậy tức gọi là thủ.
Thì từ cái thủ này mới thêm một cái duyên nữa là thủ duyên hữu.
Hữu tức là có; có cái gì?
Có sướng khổ, được mất bại thành.
Thì chính này sẽ đến một cái duyên cuối cùng là một sự kết thúc. Đó là hữu duyên lão tử ưu bi khổ não. Sống trong khổ não, lo lắng, sợ hãi.
Rồi cũng tức là già rồi chết. Mà chết xong tức là nó còn ưu bi khổ não nữa nhưng mà người đời chưa thấy biết.
Thì chu kỳ của một chúng sanh bình thường là như vậy. Bậc tỳ kheo phải thấy được mười hai cái nhơn duyên này để mà ra cái trí giải thoát thì thành bậc đại tỳ kheo.
Tiếp tục nguyên văn: Các vị đó đều là bậc A-La-Hán, các lậu đã hết, không còn phiền não việc lợi mình đã xong dứt sự ràng buộc trong các cõi tâm được tự tại.
Thì bậc đại tỳ kheo này là thực phải là một bậc A-La-Hán.
Tức là tu được kinh này muốn hiểu được rồi thâm nhập được Pháp Hoa tam muội thì chí ý nhất là quả vị A La Hán.
Mà quả vị A La Hán này cũng không phải dễ tu, mà hiểu rồi thì dễ tu chứ không khó.
Thì phải hiểu pháp này là đang nói cho đại trí đại lực. Chúng sanh nghe vô mà chịu tu thì cũng được phần nào biết phần đó; nhưng thực sự am hiểu pháp này một cách đúng nghĩa là phải trụ vào được địa vị của hàng A La hán.
A La Hán thì các lậu phải hết.
- Các lậu này từ đâu ra?
Từ các căn, các căn này nó còn dính lậu; thì lậu cũng như là rác vậy, các rác bẩn của tâm ý nó còn ẩn chứa bên trong chưa có lôi ra được, nó làm đen dơ nhiễm cái pháp không có lành mạnh. Thì các lậu này nó mới sanh phiền não. Thì bậc La Hán là phải dứt được các lậu này thì không còn phiền não.
Không còn phiền não thì mới sanh ra lợi; lợi này là lợi cho ai: Lợi cho mình.
- Lợi gì cho mình?
Lợi cho các căn, các căn phải dứt được các lậu thì mới gọi là có lợi.
Ví dụ một đất nước khi mình đi ra ngoài đường mà giống như một bãi rác; rồi ruồi muỗi gián chuột, chó dại mèo hoang xuất hiện khắp mọi nơi, rồi dịch bệnh thổ tả, nhiểm trùng nhiễm khuẩn tràn lan; nước sông thì hôi hám đen ngòm. Thì như vậy là có lợi hay có hại.
Mình ở trong một khu phố ổ chuột, không có an toàn thực phẩm cho đến nguồn nước trong sinh hoạt hằng ngày; rồi công ăn việc làm cũng không ra chi, con cái anh em mình cũng ở đó thì có phiền não không. Có thích đến một cái thành phố như Xin-ga-po mà ở không; không nói Xin-ga-po mà chỉ cần một căn nhà đàng hoàng là cũng mừng lắm rồi.
Cũng như vậy cái căn của mình lúc nào cũng bị ô nhiễm, các lậu chứa đầy rồi tham sân si quyết chiến ở trong đó thì chính cái này có giàu mấy thì giàu, tiền mấy thì tiền; cũng không thoát được cái phiền não khổ.
Ví dụ gia đình mình giàu có; con cái được no ấm. Nhưng khổ nỗi cái thằng con suốt ngày nghiện game chứ chưa nói nghiện ngập rồi dắt bệnh về; thì nói nó cũng chả thèm nghe, thương cũng chả thèm nhận; mắng nó thì nó mắng lại chứ không sợ. Lạng quạng là cha mẹ nó nó cũng quát tới luôn; chìu cũng không được, làm tới cũng không xong. Thì chỗ này ở thế gian không tu làm sao chịu nổi; bởi vì trong đầu nó có quá nhiều rác, quá nhiều các lậu; cái lậu này thành bệnh rồi thành di chứng luôn rồi.
Cho nên không có cái trí lực thì người thế gian mãi mãi sống trong lo âu sợ hãi và phiền não.
- Bởi vì sao?
Chưa chắc cái đồng tiền của mình là trong sạch?
Con của mình nó ăn cái đồng tiền bẩn rồi máu mủ của chúng sanh nó cũng sẽ nhiễm cái bẩn đó; cái lậu sẽ sanh sôi nảy nở. Thì chính chỗ này là chúng sanh đi thọ khổ.
Thì tu làm sao phải đến được cái chỗ lợi mình.
Lợi mình này không có nghĩa là ta chỉ biết cho ta thôi; mà lợi mình ở đây là cái căn lợi, lợi căn.
Từ cái lợi căn này sanh ra cái huệ căn giải thoát; thì giải thoát này mới gọi là đã xong. Đã xong là phải dứt được sự ràng buộc trong các cõi; thì cái này cũng là cái giới căn của người tu. Thì từ chỗ này trong các cõi tâm được tự tại.
Thì thế nào mà gọi là tâm được tự tại?
Không có bị lôi kéo nữa, không bị cám dỗ nữa, không có day dưa nữa. Dứt khoác được rồi, sáu căn ba nghiệp được trang nghiêm thanh tịnh không có sợ hãi lo khổ nữa thì tâm được tự tại.
Tâm đức tự tại mới thấy được tất cả các hàng La Hán hộ phật đạo như:
Tên của các vị đó là: A-Nhã Kiều-Trần Như, Ma-Ha Ca-Diếp, Ưu-Lâu-Tần Loa Ca-Diếp, Dà-Gia Ca-Diếp, Na-Đề Ca-Diếp, Xá-Lợi-Phất, Đại Mục-Kiền Liên, Ma-Ha Ca-Chiên-Diên, A-Nậu Lâu-Đà, Kiếp-Tân-Na, Kiều-Phạm Ba-Đề, Ly-Bà-Đa Tất-Lăng-Già-Bà-Ta- Bạc-Câu-La, Ma-Ha-Câu-Hy-La, Nan-Đà, Tôn-Đà-La Nan-Đà, Phú-Lâu-Na, Di-Đa-La-Ni-Tử, Tu-Bồ-Đề, A-Nan, La-Hầu-La v.v.. đó là những vị đại A la-hán hàng tri thức của chúng.
Thì trên đây là những vị hộ phật đạo, những vị đại A La Hán hàng tri thức của chúng.
Bây giờ tìm hiểu A nhã Kiều Trần Như.
Trách nhiệm của bậc La Hán A Nhã Kiều Trần Như, cả thảy năm anh em nhà ổng nữa này là làm gì.
Phải sanh ra trước Phật, lót đường trước khi Phật ra đời thì ổng phải xuống trần trước. Thì A Nhã Kiều Trần Như này mới đầu là thầy, sau coi là bạn đồng hành, sau nữa mới nhận Phật làm thầy; đệ tử đầu tiên của Phật. Năm anh em nhà ông Kiều Trần Như này cũng khổ hạnh chung với Phật, rồi khi Phật thành tựu mới phương tiện làm đệ tử.
Sau khi Phật chuyển Pháp Luân Thánh Đế cho năm anh em A Nhã Kiều Trần Như đắc được thánh quả tại Varanasi hay còn gọi là vườn Nai, vườn Lộc Uyển này thì tiếp tục ngài một mình đi tìm ba anh em nhà Ca Diếp. Đó là Ưu-Lâu-Tần Loa Ca-Diếp, Dà-Gia Ca-Diếp, Na-Đề Ca-Diếp; ba ông này có khoảng 1.000 đệ tử mới đồng thời theo Phật được cảm hóa một lúc. Tự nhiên Phật có cả ngàn đệ tử, thành một tăng đoàn hùng mạnh.
Thì bây giờ phải biết đây là cái tướng thị hiện của các hàng Đại A La Hán; ai nói mấy ổng trước đó tu theo ngoại đạo gì không biết, nhưng tới lúc tới thời rồi thì mấy ổng phải xuống để chuẩn bị nhân lực cho Phật đạo ra đời.
Thì tất cả phải có một cái nhơn duyên được chuẩn bị từ trước thì Phật xuất hiện mới gọi là đại trí đại lực; không phải muốn xuống lúc nào là xuống cũng được đâu.
Rồi chuẩn bị một ông Xá Lợi Phất cũng là một bậc trí tuệ đương thời được thế gian xưng tụng, rồi một ông Mục Kiền Liên là một bậc đại hiếu hạnh.
Rồi tới phiên ông Ma-Ha Ca Chiên Diên; ông Ca Chiên Diên này là con của một quốc sư ở một đất nước kia; tiên nhân A Tư Đà là cậu ruột của Ca Chiên Diên gọi tiên nhân này là cậu, tiên nhân là anh của mẹ Ca Chiên Diên; tiên nhân A Tư Đà này được chư Phật mách bảo mới đến tiên tri cho nhà vua Tịnh Phạn sau này đức Phật sẽ là một bậc giác ngộ tối thượng.
Ổng già rồi, cho tới lúc Phật thành đạo thì ổng biết mình không còn nữa; ông mới dạy dỗ thằng cháu này là ông Ma-Ha Ca-Chiên-Diên để mà gởi gắm qua trợ Phật đạo cho Phật. Thì khi qua trợ Phật đạo rồi thì những vị này cũng làm hết sức cái trọng trách của mỗi vị để Phật đạo được ra đời viên mãn.
Thì trên đây có giới thiệu rất là nhiều những vị đại A La Hán hàng trí thức cũng đều như thế. Cũng đều là bậc A La Hán; tức là họ đã tu nhiều đời rồi, cũng đồng một hạnh thanh tịnh.
Thì khi mà bất cứ một ai một thành tựu được các quả vị này rồi; thì trong các cõi nước nhiều như lúa mè tre lau trong mười phương cõi chỗ nào thiếu nhân lực thì Hội thượng Phật cũng cắt cử qua nơi những phương khác đó cũng đều trợ Phật đạo như thế.
Thì phải thấy được như vậy là các hàng Đại A La Hán này là có từ trước khi Phật chưa ra đời rồi; họ đồng sanh xuống nhân gian để mà tu đạo trợ pháp hộ Phật. Rồi cũng mấy ngàn năm nay các hàng giải thoát cũng là mấy ổng thôi; rồi ở Tây Tạng, Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật bản các nơi các nước cũng đều như thế; cần tướng nào hiện tướng đó; một nhiệm kỳ trải qua trăm ngàn năm ức năm như thế. Rồi thấy thế có vẻ là gian khổ lắm, nhưng trên thực tế đã đạt được cái quả vị giải thoát rồi thì mọi sự khác hẳn.
Tất cả đều phải đi theo qua các chặng cơ mật của Phật đạo, Thánh đạo cho đến Thiên đạo cũng đều như thế.
Tất cả các hàng này cũng đều đang trụ ở thế gian hết rồi; nhưng Phật đạo chưa chuyển pháp luân lại một lần nữa thì họ là một ẩn số.
Cho nên ai đó có tự xưng ta là A La Hán, hay Bồ tát Phật nào đi nữa; thì phải biết nó cũng như trò chơi của con nít vậy đó. Bởi vì ông có là A La Hán đi nữa nhưng Phật đạo chưa chuyển pháp luân thì ông cũng là A La Hán nữa vời, Bồ tát nữa vời, Phật nữa vời mà thôi; chánh tà lẫn lộn, thị phi vẫn lẫn lộn.
- Bởi vì sao?
Bởi vì ông đâu có trí lực của hàng La Hán; rồi một chút phương tiện của để giáo hóa chúng sanh ông toàn rêu rao cho cố vô; toàn là quăng lựu đạn hết, rồi tư duy cực đoan, tự phong tự đắc chí; rồi chống đối đầu này, phá đám đầu kia.
Cái nghĩa của kinh pháp này đây một chút mà ông luận giải cũng trật lất; ông giảng giải để ông tôn cái bản ngã của ông lên mà không tìm ra thánh đạo. Ông lợi dụng nó để ông trục lợi; rồi ông lại chê bai kinh này, nói xấu kinh kia ông nhồi nhét tư tưởng cực đoan. Thì phải biết tất cả các hàng tu, tất cả các đạo cũng đều phải ý thức được cái đường lối của mình đi để không bị lợi dụng vào cái sự tín tâm mơ hồ của quần chúng.
Đừng nghĩ ông là A La Hán, hay là Bồ tát Phật đi nữa thì ông muốn làm gì thì làm đâu; không có chuyện đó.
Thánh đạo ra đời đều phải có một lộ trình; lộ trình này được chuẩn bị trên toàn cầu thì lúc đó thật sự là Thánh đạo ra đời, ứng với thiên cơ chứ hoàn toàn không bộc phát. Nhân sự hàng trăm triệu cho đến hàng tỷ, từ đạo này cho đến đạo kia cũng là chuyện bình thường.
Cái đẳng cấp của Phật đạo là dữ dội lắm; không phải bộc phát, không phải mơ hồ; cũng không phải như bây giờ.
Cả một lãnh thổ Châu Phi rộng lớn, con người đông đúc. Thánh đạo ra đời thì chỉ cần quơ tay là đã an ổn giàu vui rồi; nếu làm được như thế thì lúc này không cần phải xưng Thánh đạo hay Thiên đạo gì hết; mọi thứ sẽ tự đi vào quỹ đạo.
Nhân sự đó phải được chuẩn bị trong tất cả các hàng giải thoát đạo cũng như đời, các hàng ngũ lãnh đạo thế giới, mọi nhân vật đẳng cấp của các đạo; hằng hà sa triệu phú cho đến các tỷ phú cũng đều nương vào đó, mọi chúng sanh đều hướng về đó; thì đó là ngày chúng ta thấy thế giới này là một cõi quốc trang nghiêm. Như vậy mới thấy được được ý nghĩa của đời chính là đạo.
Tôi không biết ngày đó là ngày nào; nhưng phải biết thế giới này là thế giới của chung tất cả nhân loại. Con người phải có một cái đẳng cấp vượt trội và nhân văn hơn bây giờ gấp trăm ngàn lần thì bản thân đã có đạo trong đó chứ không còn phân biệt đạo hay đời nào nữa.
Lại có bậc hữu-học và vô-học hai ngàn người.
Bậc hữu học và vô học này là không nhắc đến người tại gia hay xuất gia, đời hay đạo.
Mà ở đây là đang nhắc đến những ai mà mà đang trụ trong pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác này. Mới trụ thôi chứ chưa đi tới nơi, mới đứng trước cửa chứ chưa vào nhà.
Thì bậc hữu học ở đây chỉ nói hữu học thôi; chứ kinh văn trong này chưa thấy thấy giải thích bậc hữu học là gì, mà vô học là gì.
Thì hữu học và vô học này chỉ ám chỉ cho một thôi chứ không phải hai người; bởi vì đây là pháp bình đẳng thì ai vô đây cũng đều phải học hết, mà ai đó đã biết hết rồi thì trụ trong pháp này để làm gì.
Thì hữu học là phải chịu học, học thì phải ghi nhớ cái bài học đó; trong này có những bài học rất quý giá mà thế gian không đến được. Rồi học đây không có nghĩa là học đại cương, rồi ôn thi, rồi để đó.
Thì phải biết tất cả mọi hoàn cảnh dù là tốt hay xấu đều là những bài học. Trong những cái bài học đó mình không có học những cái ngu cái dở, rồi cái dại; rút ra được những kinh nghiệm thuộc nằm lòng rồi thì từ cái hữu học này sẽ trở thành vô học. Không cần học nữa là bởi vì quá thông thuộc rồi.
Thì bậc hữu học và vô học hai ngàn người này theo một cái nghĩa khác cũng có nghĩa là người khôn và người ngu.
Ngu cho nên mới học, mà học sao gọi là ngu; không học đâu khôn được, cho nên học là khôn. Học miết mà không khôn ra được thì phải coi lại cái sự học của mình.
Rồi không học mà vẫn lanh trí thì đó cũng là bình thường. Bởi vì người ta có đầu óc chứ đâu phải không có; thì đây gọi là căn tánh có khác giống. Nghĩa là không học mà vẫn hơn khối người đi học.
Cũng như vậy: Tu miết mà không thành thì sự tu này chưa có giá trị; học miết mà học cũng như không thì cũng như vô học, vô học với thất học này cái nghĩa cũng như tương đồng.
Thì phải biết cái tu nó khác với cái học; nhưng tu mà không học sao biết đường mà tu. Nếu không học mà tu được tức là học trong cái Duyên giác, bậc này rất hiếm; nhưng cũng không phải là giỏi, vì vẫn còn nhiều giới hạn trong mỗi cái duyên.
Cho nên ở đây cũng cần có một cái duyên mới hy hữu là trụ trong pháp này đào sâu vào tâm pháp để kiểm chứng tâm linh thấy biết rõ ràng hơn.
Thì phải biết hữu học ở đây rất là rộng.
Đã học từ cái kiếp nào nào cho đến bây giờ chứ không phải mới học đây; học từ vô số kiếp rồi nhưng giờ vẫn chưa học xong, vẫn còn sanh tử khổ đau. Thì ở chỗ này chúng sanh cũng gọi là hữu học, nhưng cái hữu học này chưa học được cái pháp giải thoát. Còn ngồi ở thế gian này tức là còn phiền não, cũng là hữu học. Thì từ chỗ hữu học này mà giờ đây đã thấy được cái đạo giải thoát nó đã hiện ra trước mắt rồi mà không nhanh tay chụp lấy tu liền thì quá kém cỏi, quá buồn cho một số phận.
Thì trụ trong pháp này thì phải là một bậc hữu học giải thoát cho đến vô học giải thoát để mà thấy được hai ngàn người là cũng chỉ cho hai cái tướng pháp thôi.
Tướng thế gian và tướng đạo; cái thân này cũng là tướng thế gian nó hiện theo hai tướng tốt và xấu biểu thị từ cái tâm. Từ cái tâm mới hiện ra các tướng đời và đạo đều đầy đủ; đạo này nó phân ra thiện ác, lành dữ, tốt xấu cũng đều là hai tướng.
Mỗi một pháp sanh ra cũng đều có hai tướng, hai tướng này mỗi tướng nó có cả ngàn tướng cho nên gọi là hai ngàn người. Mà người cũng gọi là nhân, mà cái nhân này đến được cũng đều nhờ cái gọi là nhân duyên; nhân duyên lành và dữ, sang hèn tốt xấu, hữu học vô học cũng đều có hai tướng cho nên gọi là hai ngàn người.
Bà Tỳ-kheo-ni Ma-ha Ba-Xà-Ba-Đề cùng với quyến thuộc sáu ngàn người câu-hội.
Bà Tỳ-kheo-ni Ma-ha Ba-Xà-Ba-Đề tức là ám chỉ một người nữ nào đó đang tu đạo, đang cùng với quyến thuộc tức là đang quyến luyến và phụ thuộc sáu cái căn tức là mắt tai mũi lưỡi thân cùng ý.
Sáu ngàn người câu hội tức là cùng với sáu căn mà câu hội.
Thì ở đây sáu căn này nếu còn quyến thuộc cái tướng nhiễm của đời mà giờ muốn tu đạo giải thoát thì phải câu hội.
Câu ở đây tức là phải đi tìm về một cái sự hội tụ; hội đủ cái nhân duyên duyên lành thì phải trụ trong pháp này, hội thượng này mà tìm cầu học đạo.
Đạo ở đâu?
Đạo cũng ở trong sáu căn này; phải khai mở cái căn lành này ra thì mới câu hội được. Thì ngay trong một câu trong kinh văn này thôi cũng đủ cho mình khai phá được đạo rồi.
Khai phá bằng cái gì?
Cũng lại là khai phá bằng sáu căn; sáu căn này tiếp xúc với tất cả pháp thường trụ nơi thế gian này để mà tìm ra chơn đạo giải thoát. Thì cái đòi hỏi ở đây là làm sao đó cho sáu căn này phải được hội sự đủ trang nghiêm thanh tịnh không còn quyến luyến cái cái tà căn tà trí này nữa thì phải câu hội; hội đủ cái thần lực trí lớn mạnh mẽ. Thì nay kinh này Phật đạo đang được diễn bày các pháp thật của cái quyến thuộc sáu căn này nó đang đọa và trụ ở chỗ nào thì nhiếp phục tu trì ở chỗ đó.
Tại sao phải nhiếp phục tu trì?
Thì người ở trên đây là bà Tỳ-Kheo-Ni; mà ni tức là nữ. Bà là nữ; mà nữ thì có nghiệp của nữ.
Thì kinh đây cũng đang ám chỉ tới các hàng nữ tu.
Thì giờ muốn tu muốn câu hội thực sự thì phải thấy được cái nghiệp nhiễm của nữ này của mình để mà trụ pháp cho vững, chịu dứt cái nghiệp nữ nhi đó mới gọi là Tỳ-Kheo.
Từ người nữ thành Tỳ Kheo thì phải biết cái tỳ kheo này ông vẫn là nữ, mang nghiệp của thân nữ mà tu đạo mà Phật vẫn cho mình tu thì phải tu chữ bà mà ra chữ ông; cái tâm đàn bà đó phải bỏ đi, ý chí nam nhi phải khởi dậy, tu đạo như một người chân chánh.
Thì ngày xưa trong lịch sử thời Đức Phật mới đầu không có cho nữ xuất gia. Ông A-Nan đại đệ tử Phật năn nỉ Phật miết tới ba lần; lúc này Phật nghĩ sao đó bất quá mới cho tu học trong hàng ngũ xuất gia.
Thì bây giờ hỏi, tại sao Đức Phật không chịu cho nữ xuất gia; không lẽ đức Phật phân biệt nam nữ. Thời đó, ngay cả hàng giai cấp bần cùng bị xả hội thời đó khinh thường mà ổng còn cho xuất gia; nhưng riêng với nữ giới thì ổng không cho.
Thì đây không phải là ổng phân biệt kỳ thị nam nữ; nhưng ổng biết được cái nghiệp của người đàn bà rất là khó tu. Không có cái ý chí tu cho kiên cố, chỉ cần mống khởi nhiễm ái tí thôi mà để nó dắt đi là đủ cửa đạo đã tan hoang rồi.
- Cái gì mống khởi?
Cái sáu căn tức là sáu ngàn quyến thuộc, các quyến thuộc này nó còn đang nằm trong ba cõi nhiễm của thân khẩu ý chưa được thanh tịnh thì nay muốn tu học cầu đạo giải thoát thì mới bắt đầu câu hội.
Thì các vị nữ tu này mới nghe Phật chế cho giới luật; rồi cũng đưa ra những mối lo ngại để cảnh tỉnh cảnh báo các hàng nữ tu này để sau này họ không có làm tàn làm dữ. Rồi phải biết an phận mà lo tu tập, đè bẹp đi tất cả cái tánh xấu của những tâm tánh đàn bà này đây phải biết là rất khó khăn để giáo hóa cho họ được thành tựu.
Thì bây giờ từ thời đó cho đến nay, ai đây mà là cái bà đang tu thì phải nhớ lấy cái lời Phật dạy là không sai đâu; đã tin Phật Phật cho tu rồi rồi Phật đã chỉ bày cho cận kẽ lắm rồi thì theo đó mà thực hành chứ đừng có thắc mắc, bởi vì càng thắc thì càng mắc; mà mắc thì dính, dính mà không thoát ra được thì đường đạo công cốc.
Chỗ này tôi nói ra đây thực sự mà nói là phiền não lắm, bởi vì tôi biết cái tâm tánh đàn bà này nó sự là ghê sợ khủng khiếp; tôi nói đây là nói pháp thật thì đừng có la ó. Nói đây không phải là nói cái vị Ma-Ha Ba-Xà-Ba-Đề vì vị này đây cũng là một hàng đại trí thức được thị hiện; mà đang đây là nói cho những người nữ tu hiện nay đây.
Tiện thể đây là cũng cảnh báo luôn các vị tỳ kheo tăng. Khi nào mà giao lưu tiếp xúc với các hàng nữ tu này, bất kể là già hay trẻ thì phải dùng lòng thanh tịnh cao độ mà nói pháp. Vì chỉ cần ông lơ là một tí thôi là coi chừng bị nắm thóp, thăm hỏi mà lơ tơ mơ cũng phải cẩn trọng tối đa giữa cái đàn bà và đàn ông này; cười cười phẩy phẩy là không được, ga lăng cũng không được, tử tế quá cũng chết. Thấy vậy thôi chứ nguy hiểm lắm; mối lo ngại của Đức Thích Ca Mâu Ni năm xưa một phần cũng nằm ở chỗ này. Cho nên ổng cũng chế ra một cái luật khắc nghiệt hơn là cách xa ba mét, ít nhất một mét, không được đụng tay; muốn cúng dường thì để dưới đó tôi lấy chứ không được truyền tay, hiện tại cái luật định này bên các nước nam truyền như Thái Lan, Cambodia, Lào ... họ vẫn giữ. Mà coi bộ bây giờ Phật giáo Đại thừa nhà mình họ không còn làm theo. Không làm theo cũng không sao, nhưng phải đủ định lực thì Bồ tát đạo không thành vấn đề.
- Bởi vì sao?
Bởi vì sáu ngàn cái quyến thuộc là sáu cái căn mắt tai mũi lưỡi thân ý mà còn nhiễm ô thì không ai lường trước được điều gì kinh khủng sẽ đến, không quan trọng là cách xa mấy mét. Đã khởi nhiễm sâu nặng rồi thì hàng trăm cây số họ cũng tự mò đến chứ không riêng gì ba mét thì có là gì đâu.
Cho nên phải cẩn trọng ba cái nghiệp nhiễm của thân khẩu ý mà làm cho đều có cái huệ căn thanh tịnh thì mới cái đạo.
Thì bây giờ tất cả các hàng tu đều phải biết; cái pháp giải thoát được cái nghiệp trần ai này là sẽ đến được một cảnh giới của thiền định hiểu biết còn an lạc nhẹ nhàng hơn rất nhiều vô số lần so với cái vui tục của thế gian.
Mẹ của La-Hầu-La là bà Tỳ-kheo-ni Gia-Du-Đà-La cùng với quyến thuộc câu-hội.
Mẹ của La-Hầu-La là đang nhắc đến hai mẹ con; mà La-Hầu-La là cũng là con của phật.
Nói đến đây để cho chúng ta biết trước khi đi xuất gia cầu đạo phật cũng có gia đình rồi sanh con; rồi từ cái chỗ thị hiện đó cũng từ đó mà am hiểu tất cả các thế gian pháp. Rồi phải hiểu tại sao phải có sự xuất hiện của hai nhân vật trong hai vai diễn Gia-Du-Dà-La và La-Hầu-La này.
Thì bây giờ phải biết ở chỗ này khi đi xuất gia tu đạo rồi không quan trọng lắm cái vấn đề anh có gia đình vợ con hay chưa; mà quan trọng anh có ngộ được lý giải thoát để từ đó mà bước vào con đường thánh đạo chân chính thì tu mới gọi là giải thoát.
Thì bây giờ ta tìm hiểu vị Tỳ-Kheo-Ni này trước kia là công chúa con của vua Thiện Giác; cũng là lá ngọc cành vàng, cũng là yểu điệu thục nữ quân tử hảo cầu; trong lịch sử là Đức Phật cũng thi thố tùm lum mới dành về được. Rồi ai cũng biết là vị này có nhơn duyên sâu dày với đức Phật từ thuở quá khứ xa xưa rồi; họ đến với nhau trên một cương vị là phương tiện trợ pháp trân trọng lẫn nhau chứ không như người thế gian. Thì trước đó trong lịch sử trước khi gặp công chúa Gia-Du-Đà-La này là Phật đã nuôi mộng xuất gia cầu đạo giải thoát lâu rồi; cái chủng tánh Phật đạo gọi là sâu dày rồi.
Vì trước khi hạ sanh là có vị tiên nhơn đã xuống tiên tri là vị này sẽ tu thành đạo rồi. Cho nên ông vua Tịnh Phạn là cha của Phật mới dùng mọi biện pháp để mà cản trở ngài đi tìm đạo; mới tìm mọi biện pháp rồi cho tới lúc Phật lấy cô công chúa này.
Sau đó khi con Phật là La-Hầu-La vừa chào đời thôi là ổng thấy mình đã hoàn thành được trách nhiệm rồi, đủ phương tiện để thị hiện cho đời thấy rồi, đã tới lúc phải ra đi rồi; rồi cũng từ trong đó mà thấy rằng ở thế gian không có gì đáng để mà lưu luyến, chỉ có con đường tâm linh giải thoát mới là cái lý thú của ổng. Ổng liền tìm cách trốn khỏi kinh thành mà đi tìm đạo trải qua nhiều chặng đường gian nan để thành tựu được quả vị giác ngộ tối thượng mà bao nhiêu đời nay người đời vẫn cung kính thờ phụng giáo pháp của ngài.
Nhưng bây giờ không nói tới Đức Phật mà nói tới Gia-Du-Đà-La. Giờ hỏi công hạnh của Gia Du Đà La ai có thể thấy biết được; nhơn gì, duyên gì, quả gì mà Gia-Du-Đà-La cũng trụ trong pháp này. Thì đây là phương tiện vi diệu khó diễn bày hết.
Thì ở đây nói quyến thuộc của Gia-Du-Đà-La này là ai. Nói theo người thế gian thì quyến thuộc của vị này là La-hầu-La, thậm chí rõ ràng là Đức Phật; nhưng nay Đức Phật đã thành tựu được đạo quả tối thượng rồi, là bậc chí tôn rồi thì không thể quy chụp thêm Đức Phật là quyến thuộc thế gian của vị Gia-Du-Đà-La này nữa. Cho nên nói theo nghĩa đen thế gian là không bao giờ chính xác được cái nghĩa của giải thoát.
Nhưng phải biết rõ ràng La-Hầu-La là con ruột của Phật theo nghĩa thế gian, rồi cũng tu theo Phật theo nghĩa giải thoát thì hai vị này không phải là quyến thuộc của Phật thì là của ai nữa. Thì phải thấy ở đây rằng: Hai nghĩa đều đúng.
Phật cũng như mình; cũng có quyến thuộc thế gian. Từ quyến thuộc thế gian này mới dắt họ đi vào làm quyến thuộc giải thoát thì trước hết phật phải có pháp giải thoát thì mới có quyến thuộc giải thoát, giải thoát theo từng bậc cũng gọi là đa dạng nghĩa vô lượng nghĩa xứ.
Bởi vì sao?
Vì ngài là cha lành chung bốn loài.
Mà bốn loài này thì đang rong rủi ngủ mê; Ngài thì cũng đi đi đến đến về về để tìm lại tất cả các người con của người để dắt vào làm quyến thuộc giải thoát; thì chỗ này đòi hỏi phải tu trì trụ pháp để có thể làm được cái quyến thuộc giải thoát của Đức Phật hay không thì quyến thuộc này mới có chỗ để nói.
Bậc đại Bồ-Tát tám muôn người đều không thối chuyển ở nơi đạo Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác.
Bậc tức là thứ bậc, cái thứ bậc của đại bồ tát này có tới tám muôn người; cũng như Phổ Hiền thì có vạn hạnh Phổ Hiền. Mà tám muôn người này mà muôn người như một thì thực ra chỉ có một người mà thôi; có muôn hay một cũng đều không thoái chuyển ở nơi Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Theo nghĩa đen tám muôn người là tám vạn tức tám mươi ngàn người.
Hiện tại thế giới này có bao nhiêu người?
Cũng có tám muôn người, tức là tám phía đều có muôn người; muôn người là không biết cụ thể hóa được bao nhiêu người cho nên mới gọi là tám muôn người, đây là một ẩn ý của ngôn từ trong kinh văn này.
Bởi vì sao?
Bởi vì một thế giới thì không ai biết ở trong đó có bao nhiêu chúng sanh, bồ tát, bao nhiêu các hạng tu đang trụ ở đó. Mỗi thời mỗi khắc đều có sự sanh diệt, sanh trưởng , rồi sanh sôi thì bồ tát hay đại bồ tát cùng tất cả chúng sanh này là ẩn số không nhất định. Mà không nhất định cho nên mới gọi là tám muôn người, nghĩa thú là như vậy.
Rồi hỏi có ai thấy tám muôn các bậc đại bồ tát này chưa, rồi tên gì, ở đâu, thần lực như thế nào, cảnh giới như thế nào, mặt mũi ra làm sao, tại sao phải câu hội trong pháp này; ai tu biết được trả lời dùm?
Thì phải biết đây là một ẩn ý; muốn tìm ra được cái ẩn ý này thì phải tìm ra cho được cái ý nghĩa của bậc đại bồ tát.
Bậc đại bồ tát là gì?
Ở giữa tám muôn người đều không thối chuyển, ở giữa muôn ngàn khó khăn đều không sợ hãi, đều không lay chuyển. Đều giữ được cái Chánh đẳng Chánh giác; tức là cái chánh này phải có đẳng cấp, cái giác phải trụ trong cái Chánh đẳng gọi là Chánh đẳng Chánh giác.
Vậy rồi nếu thối chuyển thì cái gì thối chuyển?
- Cái tâm lực, định lực, trí lực, và căn lực.
Bởi vì sao thối chuyển?
Vì tâm lực khổng đủ mạnh, định lực lung lay, trí lực không đủ sáng, căn lực không đủ thanh tịnh thì sẽ thối chuyển.
Bồ tát đạo tu mới có một chút khó khăn thôi đã từ bỏ rồi tức đó chỉ là chúng sanh thôi chứ không phải Bồ tát đạo. Rồi có tâm bồ tát, có tu giải thoát nhưng không trụ được nơi cái Chánh đẳng Chánh giác thì tức là thoái chuyển. Giờ muốn không thoái chuyển thì phải ở nơi đạo Vô-thượng Chánh đẳng Chánh giác để đều chứng được pháp Đà-la-ni nhạo thuyết biện tài chuyển nói pháp luân bất thối chuyển.
Khi ở nơi đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác rồi là phải tìm thấy một cái đẳng cấp giải thoát rồi thì chính chỗ giải thoát này mới chứng biết được sự thật của các pháp một cách minh bạch thì sự nói pháp này là dựa trên cơ sở thực chứng biện tài mới có thể chuyển nói được pháp luân bất thối chuyển.